Viện Quản trị & Công nghệ FSB – Đại học FPT tổ chức giải Golf cho học viên và cựu học viên

Viện Quản trị & Công nghệ FSB vừa qua đã tổ chức thành công FSB Golf Open 2020 – Giải Golf thường niên dành cho các học viên và cựu học viên của trường.

>> Chi tiết: https://cafef.vn/vien-quan-tri-cong-nghe-fsb-dai-hoc-fpt-to-chuc-giai-golf-cho-hoc-vien-va-cuu-hoc-vien-20201211211348795.chn

Viện trưởng FSB: “Được bình chọn là trường đào tạo kinh doanh tốt nhất Việt Nam, chúng tôi có rất nhiều việc để làm…”

Theo công bố mới nhất 2020 của Tổ chức xếp hạng giáo dục toàn cầu Eduniversal: FSB vinh dự trở thành trường đào tạo kinh doanh tốt nhất Việt Nam! Hãy cùng gặp gỡ Viện trưởng Viện Quản trị & Công nghệ FSB, Đại học FPT – Tiến sĩ Nguyễn Việt Thắng để cùng chia sẻ thêm về thành tích mới nhất này.
 
 
FSB là Trường đào tạo Kinh doanh tốt nhất Việt Nam theo xếp hạng của Eduniversal năm 2020
 
Phóng Viên(PV): Xin chào Viện Trưởng (VT). Xin chúc mừng Viện Quản trị & Công nghệ FSB đã xuất sắc giành được vị trí dẫn đầu trong Bảng xếp hạng mới nhất của Eduniversal. Với tư cách là người đứng đầu đại diện FSB, anh có đánh giá như thế nào về lần thăng hạng lần này của trường?
 
Viện Trưởng: Để nói về đánh giá chung thì tôi khá “bất ngờ”. Bởi suốt nhiều năm từ 2012, FSB luôn loanh quanh vị trí thứ 2, thứ 3. Năm nay là năm đầu tiên FSB giành được vị trí dẫn đầu. Bạn có thể thấy đó, điểm chấm cho FSB và trường Top 2 là bằng nhau (137 điểm), nhưng Eduniversal đã xếp FSB ở vị trí số #1. Eduniversal là sân chơi xếp hạng các trường Kinh doanh uy tín, thế nên việc đạt được thành tích dẫn đầu các trường Kinh doanh tốt nhất tại Việt Nam là một sự ghi nhận tích cực. Ngoài ra, nhìn ở góc độ chuyên biệt, chương trình MBA của FSB năm nay tiếp tục giữ vững vị trí top 24 trong xếp hạng các chương trình MBA tốt nhất Đông Á – thể hiện về chất lượng chuyên môn sâu chương trình đào tạo của FSB.
 
 
Viện Quản trị & Công nghệ FSB, Đại học FPT trong Top 30 trường học Việt Nam đào tạo Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh toàn thời gian khu vực Đông Á năm 2019 (hạng 24/30)
 
PV: Để có được thành tích nói trên, Ban lãnh đạo viện đã có những cải tiến như thế nào để đạt được thứ hạng này trong năm 2020 thưa anh?
 
Viện Trưởng: Không, chúng tôi đã không "cải tiến” gì để tăng hạng cả. Đây hoàn toàn do đánh giá khách quan của Eduniversal xếp hạng năm 2020 . Tổ chức giáo dục này không chỉ đánh giá các đơn vị giáo dục dựa trên bảng tiêu chí thông thường như tiêu chuẩn về chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất, sinh viên, nghiên cứu khoa học… mà họ còn sử dụng hình thức “Dean Vote” – 1000 Viện trưởng/Hiệu trưởng các trường Quản trị Kinh doanh nằm trong mạng lưới của Eduniversal sẽ “Vote kín” để đánh giá ngoài các chỉ số điểm "khô khan" còn có sự ảnh hưởng thương hiệu các trường kinh doanh trong cùng quốc gia và trong khu vực. Hình thức “Vote” (Phiếu bầu) này thể hiện sự công nhận uy tín của FSB về đào tạo Quản trị trong con mắt Dean các Trường bạn.  
 
PV: Anh có cho rằng, việc trở thành trường kinh doanh tốt nhất Việt Nam sẽ là “áp lực” cho FSB trong việc giữ vững vị trí này ở những năm tiếp theo không?
 
Viện Trưởng: Tôi không nghĩ điều này là “áp lực” đối với FSB – nhưng nó chính là một Thách thức. Đặc biệt, trong bối cảnh Chiến lược Phát triển giai đoạn 2021-2023 của FSB , chúng tôi dịch chuyển sang một định vị mới – “Elite”. Có nghĩa là FSB sẽ chuyển sang một diện mạo khác, với sự tập trung vào xây dựng hình ảnh thương hiệu Trường Kinh doanh đẳng cấp về chất lượng, Hạnh phúc cho người học – sẽ là điểm tựa chất lượng cho các khối ngành Kinh tế khác trong Tổ chức Giáo dục FPT cùng phát triển.
Tôi cho rằng FSB sẽ làm được – chúng tôi sẽ có rất nhiều việc để làm!
 
PV: Vâng, xin cảm ơn anh về cuộc phỏng vấn này. Xin chúc FSB phát triển hơn nữa và tiếp tục đạt được những thành tựu mới!

Tin FSB

Ngược chiều top 10 vốn hóa

Sự thay đổi thứ hạng trong top 10 vốn hóa thị trường phản ánh rõ nét diễn biến của nền kinh tế.

Sau những thăng trầm vì dịch COVID-19, chỉ số VN-Index đã chinh phục thành công ngưỡng 1.000 điểm, kết thúc tháng 11 tại mức 1.003 điểm. Tổng kết tháng 11, chỉ số VN-Index tăng hơn 77,6 điểm, tương đương tăng 8,39%, là tháng thứ 4 tăng liên tiếp từ vùng giá dưới 800 điểm hồi tháng 7.2020. 
 
Đóng góp chính vào đà tăng mạnh của thị trường chung là nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn, chiếm tới hơn 50% tổng giá trị vốn hóa trên toàn thị trường chứng khoán Việt Nam (gồm 3 sàn HOSE, HNX và UPCoM). Top 10 công ty có giá trị vốn hóa lớn nhất thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có nhiều thay đổi.
 
Nửa đầu phân hóa 
 
Tại thời điểm 30.11.2020, tổng giá trị vốn hóa của 10 doanh nghiệp lớn nhất sàn đạt gần 2 triệu tỉ đồng. Trong đó, nửa đầu Top 10 không có sự thay đổi về thứ hạng, nhưng lại có sự phân hóa trong chặng đường trở lại vạch xuất phát của năm 2020. Với giá trị vốn hóa tại thời điểm 30.11 là hơn 351.400 tỉ đồng, Tập đoàn Vingroup (VIC) tiếp tục dẫn đầu về giá trị vốn hóa. Tuy nhiên, so với đầu năm 2020, con số này vẫn giảm khoảng 9,5%. 
 
Cùng với Vingroup, Công ty Cổ phần Vinhomes (VHM) và Ngân hàng BIDV (BID) cũng đang lấy lại những gì đã mất. Giá trị vốn hóa thị trường hồi cuối tháng 11.2020 của Vinhomes và BIDV lần lượt đạt 276.669 tỉ đồng và 167.718 tỉ đồng, tương ứng giảm 1,3% và 10,7% so với đầu năm 2020. Hiện tại, Vinhomes và BIDV lần lượt giữ vị trí số 3 và số 5 trong Top 10 vốn hóa lớn nhất thị trường chứng khoán Việt Nam.
 
 
Trong khi đó, ở vị trí số 2 là Ngân hàng Vietcombank (VCB) với giá trị vốn hóa hơn 344.925 tỉ đồng. Khác với Vingroup, Vietcombank đã trở lại vạch xuất phát và đang trên đường chinh phục những cột mốc mới. Vốn hóa thị trường hiện tại của Vietcombank đã tăng 3,4% so với hồi đầu tháng 1.2020. 
 
Cùng với Vietcombank, Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk, mã VNM) cũng gia nhập đường đua. Tại thời điểm 30.11, giá trị vốn hóa của Vinamilk đạt hơn 226.100 tỉ đồng, tăng 9,8% so với đầu năm 2020 và là doanh nghiệp có vốn hóa lớn thứ 4 trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
 
Nửa sau đổi ngôi 
 
Trong khi nửa đầu Top 10 giữ vững ngôi vị thì nửa sau lại có sự thay đổi đáng kể. Đầu tháng 1.2020, Tổng Công ty Khí Việt Nam (GAS), Tổng Công ty Cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco, mã SAB), Techcombank (TCB), VietinBank (CTG) và  Công ty Cổ phần Vincom Retail (VRE) là 5 cái tên xuất hiện trong nửa sau Top 10 công ty có giá trị vốn hóa lớn nhất thị trường.
 
Trải qua 11 tháng thăng trầm cùng thị trường, cả Techcombank và Vincom Retail đều bị soán ngôi bởi sự vươn lên của Công ty Cổ phần Tập đoàn Hòa Phát (HPG) và Công ty Cổ phần Tập đoàn Masan (MSN). Cụ thể, tại thời điểm 30.11, giá trị vốn hóa của Hòa Phát và Masan lần lượt đạt 98.018 tỉ đồng và 96.324 tỉ đồng, vượt qua 2 ứng viên cũ để góp mặt vào Top 10. Giá trị vốn hóa của 2 tân binh là Hòa Phát và Masan cũng tăng lần lượt 47% và 43,3% so với đầu năm 2020.
 
 
Bên cạnh sự xuất hiện của các tân binh, thứ tự trên bảng xếp hạng của các doanh nghiệp ở nửa sau Top 10 cũng bị xáo trộn. Ảnh: Qúy Hòa
 
Bên cạnh sự xuất hiện của các tân binh, thứ tự trên bảng xếp hạng của các doanh nghiệp ở nửa sau Top 10 cũng bị xáo trộn. Cụ thể, VietinBank đã vươn lên vị trí số 7 so với hạng 9 hồi đầu năm 2020. Tại thời điểm 30.11, giá trị vốn hóa của VietinBank đạt hơn 124.734 tỉ đồng, tăng 57% so với tháng 1.2020.
 
Ở chiều ngược lại, với giá trị vốn hóa hơn 122.800 tỉ đồng (giảm 14,7% so với tháng 1.2020), Sabeco đã tụt 1 bậc xuống vị trí số 8 trên bảng xếp hạng vốn hóa. Trao đổi với NCĐT, ông Trần Đức Anh, Giám đốc Kinh tế Vĩ mô và Chiến lược thị trường thuộc Công ty Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV), nhận xét, đà hồi phục mạnh mẽ của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua được hỗ trợ chủ yếu từ diễn biến bứt phá ở nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn, trong đó có nhiều cổ phiếu đã tăng vượt mốc thời điểm cuối năm 2019 khi nền kinh tế chưa chịu tác động bởi dịch COVID-19.
 
Theo ông Trần Đức Anh, diễn biến trên có thể được lý giải bởi 3 nguyên nhân chính. Đầu tiên là việc kiểm soát tốt dịch bệnh, cùng kỳ vọng cao vào đà hồi phục của nền kinh tế trong năm sau đã đẩy chỉ số VN-Index tăng mạnh và vượt mốc 1.000 điểm. Thêm vào đó, sau giai đoạn chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh, nhóm doanh nghiệp vốn hóa lớn đứng trước cơ hội phục hồi rõ nét hơn so với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhờ lợi thế về quy mô, vốn, thị phần và quan hệ với đối tác.
 
Cuối cùng, theo ông Trần Đức Anh, nhiều doanh nghiệp vốn hóa lớn được tiếp sức bởi các chính sách hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của Chính phủ như đẩy mạnh đầu tư công, nới lỏng tiền tệ hay hưởng lợi từ các hiệp định thương mại tự do được ký kết gần đây (EVFTA, RCEP).
 
“Dù nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn đã tăng giá mạnh mẽ nhưng nhờ được hỗ trợ bởi các yếu tố cơ bản, tôi cho rằng về tổng thể, dư địa tăng giá ở nhóm cổ phiếu này vẫn còn và là lựa chọn tương đối an toàn đối với nhà đầu tư ở thời điểm hiện tại”, ông Trần Đức Anh nhìn nhận.

(Nguồn: NCĐT)

Quản trị doanh nghiệp trong một thế giới ngày càng phẳng

Dù sản xuất ra được các sản phẩm tinh xảo, đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao nhưng nhiều doanh nghiệp Việt vẫn không thể trở thành nhà cung ứng cho các ông lớn trên thế giới đang “dòm ngó” thị trường Việt Nam do chưa đáp ứng được những yêu cầu khắt khe về mặt quản trị.

TS. Phan Long, Giám đốc Viện Nghiên cứu kế toán Úc
 
Việt Nam là một trong những quốc gia tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) nhất trên thế giới. Việc kiểm soát tốt dịch bệnh Covid-19 cùng với cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đã khiến Việt Nam được dự đoán sẽ trở thành điểm đến hàng đầu của làn sóng dịch chuyển đầu tư.
 
Tuy nhiên, để có thể đón được làn sóng này, TS. Phan Long, Giám đốc Viện Kế toán quản trị công chứng Úc (CMA Australia) tại Việt Nam cho rằng, các doanh nghiệp cần thay đổi về năng lực cạnh tranh và nguồn lực, đặc biệt là khi Việt Nam chưa có hệ thống doanh nghiệp phụ trợ đủ mạnh để hỗ trợ các nhà sản xuất lớn trên thế giới dịch chuyển sang Việt Nam.
 
Năm 2020, thế giới bước vào trạng thái bình thường mới với rất nhiều khó khăn và bất ổn, các quốc gia có sự chia tách nhất định. Ông Long cho biết, khi tác giả cuốn “Thế giới phẳng” Thomas Friedman được hỏi rằng liệu thế giới có còn phẳng nữa hay không, ông Thomas đã khẳng định thế giới còn phẳng hơn trước đây.
 
Xét về mặt địa lý, sự ngăn cách diễn ra rất rõ ràng trong mùa dịch bệnh. Thế nhưng, trong bối cảnh đó, con người và các doanh nghiệp chuyển lên môi trường mạng, sống “trên mây” nhiều hơn, minh bạch hơn và khuyến khích câu chuyện xuyên biên giới.
 
“Với doanh nghiệp Việt, phải thay đổi và phát triển trong điều kiện môi trường số, sẽ có xu hướng số hoá doanh nghiệp nhiều hơn, nhấn mạnh là số hoá thay vì phần mềm hoá”, ông Long nói tại diễn đàn "Quản trị doanh nghiệp trong giai đoạn mới".
 
Muốn minh bạch và đánh giá được thị trường buộc các doanh nghiệp phải có dữ liệu. Việc nắm được dữ liệu của thị trường, khách hàng và thậm chí là nhân viên sẽ quyết định tính cạnh tranh của một doanh nghiệp. Theo đó, các doanh nghiệp cần có bước đi tắt đón đầu trong việc số hoá tất cả hoạt động để tinh gọn các quy trình và cắt giảm chi phí.
 
“Nhiều doanh nghiệp chia sẻ rằng có thể sản xuất ốc vít cho đồng hồ Thuỵ Sỹ nhưng lại không sản xuất được ốc vít để lắp cho điện thoại Samsung. Thực ra không phải họ không đủ năng lực sản xuất mà do yêu cầu các nhà sản xuất lớn trên thế giới đưa ra cho các doanh nghiệp hỗ trợ thường rất cao”, ông Long cho biết.
 
Chẳng hạn, Samsung yêu cầu các doanh nghiệp muốn trở thành đối tác của họ phải có bằng sáng chế. Doanh nghiệp này cũng yêu cầu mức giá thấp đến mức doanh nghiệp Việt nghĩ không bao giờ đạt được. Ông Long cho rằng muốn đạt giá thành thấp để đáp ứng yêu cầu của Samsung thì phải thay đổi cấu trúc quản trị, tinh giảm và tiết kiệm chi phí.
 
Các doanh nghiệp lớn trên thế giới cũng yêu cầu các nhà cung ứng phải đáp ứng yêu cầu về trách nhiệm xã hội. Dù là người mua nhưng các doanh nghiệp này lại yêu cầu các đơn vị cung ứng phải có cấu trúc tài chính vững mạnh.
 
Thậm chí, có những doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm đơn giản như bao bì nhưng phải đáp ứng yêu cầu của đối tác là cứ hai tiếng phải giao hàng một lần, không bất kể khối lượng. Đây là một điều kiện về giao hàng mà nhiều doanh nghiệp Việt khó đáp ứng được.
 
“Các doanh nghiệp Việt dù có khả năng sản xuất ra các sản phẩm tinh xảo thì lại khó đáp ứng được các yêu cầu về mặt quản trị để có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu”, ông Long nói.
 
Sự chuyển mình rõ nét sau Covid-19
 
Với xu hướng biến đổi đó, Giám đốc CMA Australia tại Việt Nam cho biết, cách thức làm việc với các doanh nghiệp năm 2020 khác biệt so với năm 2019. Xu hướng rõ nét năm nay là số hoá tất cả hoạt động từ tiếp cận khách hàng, hoạt động sản xuất, bán hàng, nghiên cứu phát triển, hoạt động trên thị trường vốn, chứng khoán….
 
Cấu trúc quản trị cũng thay đổi hoàn toàn. Trước đây, các doanh nghiệp chủ yếu hoạt động theo cấu trúc hình kim tự tháp, có chủ tịch HĐQT, tổng giám đốc, nhiều phòng ban chức năng và các công ty con. 
 
Thế nhưng số hoá đã khiến cấu trúc quản trị của doanh nghiệp trở nên phẳng hơn, dẹt hơn, không cần quá nhiều phòng ban chức năng mà thay vào đó, giám đốc có thể tương tác trực tiếp được với nhân viên ở tuyến đầu.
 
“Năm 2019 chúng tôi làm việc với Viettel Telecom, giúp họ xây dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp. Ban đầu, họ có 4-5 bậc trong quản trị, từ lãnh đạo cao nhất cho đến nhân viên kinh doanh tuyến đầu. Nhưng hiện nay, tổng giám đốc đã có thể giám sát và điều hành tuyến đầu hoạt động ở cấp huyện xã, rút ngắn thời gian cho việc ra quyết định”, ông Long cho biết.
 
Theo ông Long, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, doanh nghiệp cần tạo lợi thế cạnh tranh thông qua việc tăng tốc độ, bởi lẽ, “cá nhanh nuốt cá chậm” chứ không còn “cá lớn nuốt cá bé” như trước đây.
 
Muốn làm được, cần có cấu trúc quản trị hệ thống tinh gọn, tăng tốc độ trong việc ra quyết định. Mục tiêu là sản xuất và cung ứng sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách hàng thông qua môi trường số với chất lượng tốt nhất ở tốc độ nhanh nhất.
 
Ông Đinh Thanh Sơn, Phó tổng giám đốc Viettel Post cho biết, hiện công ty này cũng đang đi theo hướng minh bạch hoá từ thông tin, dịch vụ, cách thức cung cấp sản phẩm đến người sử dụng. Từ 2009, công ty đã thực hiện cổ phần hoá và lên sàn, được thị trường đánh giá rất cao, thông qua việc giá cổ phiếu của công ty ở mức tốt. Như vậy, các nhà đầu tư sẽ có cách nhìn khác về doanh nghiệp khi doanh nghiệp thực sự minh bạch.

Nhờ số hoá về mặt quản trị mà Viettel Post cũng có thể điều hành từ cấp cao nhất đến tuyến đầu ở cấp địa phương, với hơn 22.000 nhân viên ở khắp 63 tỉnh thành, giúp việc quản trị trở nên sâu sát.
 
“Trước kia, cán bộ, nhân viên kiến nghị phải qua các cấp, nhưng đến nay kiến nghị có thể đi thẳng đến lãnh đạo cao nhất và được giải quyết nhanh chóng. Vấn đề minh bạch thông tin giúp dòng chảy quản trị công ty từ lãnh đạo đến nhân viên được thông suốt”, ông Sơn chia sẻ.
 
Về lĩnh vực logistics, Viettel Post công bố ra ngoài các thông tin công khai giúp khách hàng tiếp cận thông tin sớm, hỗ trợ khách hàng tối đa và nâng cao chất lượng dịch vụ, sản phẩm.
 
Năm 2020 là một năm khó khăn đối với các nền kinh tế nói chung và ngành dược cũng không thoát khỏi những tác động tiêu cực mặc dù bị tác động ít hơn các ngành khác. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, người dân cũng tiết kiệm hơn, các kênh phân phối trực tiếp như qua bệnh viện cũng giảm mạnh do yêu cầu về cách ly xã hội.
 
Thế nhưng bà Vũ Thị Thuận, Chủ tịch HĐQT Traphaco cho biết, công ty này vẫn ghi nhận kết quả kinh doanh tích cực với doanh số quý III/2020 tăng 22% và lợi nhuận tăng hơn 23% so với cùng kỳ năm ngoái.
 
Trong đó, bà Thuận khẳng định phải “cảm ơn” Covid-19 vì đã thúc đẩy công ty này nhanh chóng áp dụng chiến lược về công nghệ số hoá vốn được đầu tư từ năm 2016. Dù dịch bệnh diễn biến khó lường dẫn đến cách ly xã hội, các chuyến bay quốc tế tạm hoãn nhưng 40% cổ đông người nước ngoài của Traphaco vẫn tham dự các cuộc họp rất đều đặn từ đầu năm nay qua kênh trực tuyến.
 
“Chúng tôi đảm bảo sự lãnh đạo liên tục, chưa lúc nào mà tốc độ nhanh như năm nay. Trong nguy có cơ hội, và chúng tôi tận dụng cơ hội, vượt qua khó khăn để trưởng thành. Chúng tôi đang áp dụng câu nói 'ai nhanh người ấy thắng" , bà Thuận cho biết.

Bà Vũ Thị Thuận, Chủ tịch HĐQT Traphaco
 
Về công tác quản trị, lãnh đạo Traphaco cho biết năm nay đã thuê tư vấn từ Big4 trong ngành kiểm toán để xem lại những lỗ hổng về quản trị rủi ro, phát huy các giá trị cốt lõi để vẫn vững vàng trước mọi khủng hoảng.
 
Traphaco cũng chú trọng phát triển văn hoá doanh nghiệp và coi đây là sức đề kháng cho doanh nghiệp. Hàng nghìn người từ lãnh đạo đến nhân viên phải thông suốt về quan điểm, có chung tiếng nói, suy nghĩ và thái độ với khách hàng.
 
Theo bà Thuận, sự kiên định với mục tiêu và chiến lược phát triển bền vững trong suốt gần nửa thế kỷ qua để tạo nên một thương hiệu vững mạnh cũng đã giúp Traphaco tạo lợi thế cạnh tranh và vượt qua được khủng hoảng.
 
“Trong bối cảnh khó khăn, người tiêu dùng lựa chọn thương hiệu uy tín. Để đạt được điều đó chúng tôi đã qua một quá trình dài phát triển theo hướng bền vững. Hiện nay Traphaco là doanh nghiệp dược có vùng trồng, thể hiện trách nhiệm xã hội lớn khi mang lại thu nhập cho người dân miền núi và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, bảo tồn thiên nhiên và phát triển môi trường”, bà Thuận khẳng định.
 
Ngoài ra, việc phát triển nguồn nhân lực đáp ứng những yêu cầu trong bối cảnh mới, đặc biệt là việc đào tạo nhân tài và đội ngũ kế cận có thể đưa doanh nghiệp phát triển trong bối cảnh mới cũng được lãnh đạo Traphaco chú trọng.
 
Theo ông Nguyễn Đức Thuận, Phó chủ tịch Hội các Nhà quản trị Việt Nam (VACD), muốn doanh nghiệp phát triển tốt thì trước hết là phải quản trị tốt, đặc biệt trong bối cảnh bình thường mới. Trong đó, ông Thuận nhấn mạnh ba chân kiềng là quản trị tài chính, nhân sự và marketing.
 
Có cùng quan điểm, PGS.TS Nguyễn Mạnh Quân, Viện trưởng Viện nghiên cứu và phát triển doanh nghiệp cho rằng trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, các doanh nghiệp không thể hoạt động theo mô hình cũ mà cần phải thay đổi trên mọi phương diện, từ minh bạch hoá thông tin đến ứng dụng công nghệ cao trong vận hành.
 
Đặc biệt, với phương thức quản trị, theo ông Quân, cần xuất phát từ tiền đề phát triển bền vững trên cơ sở ba trụ cột: kinh tế, con người và môi trường. Ngoài ra, yếu tố văn hoá doanh nghiệp cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng.
 
Tiếp theo là yếu tố cạnh tranh bằng năng lực, muốn hội nhập phải hoàn thiện công nghệ và các chuẩn mực. Đồng thời, doanh nghiệp cần khai thác tốt các nguồn lực vốn có để phát huy được tối đa sức mạnh. Ngoài ra, bên cạnh thay đổi công nghệ và phương thức thì người lãnh đạo cũng cần thay đổi trong vai trò của người dẫn đầu để tạo ra môi trường làm việc tốt hơn, văn hoá doanh nghiệp sâu sắc hơn.

(Nguồn: The Leader)

Muốn biết giá trị của mình, hãy chơi với người giỏi nhất thế giới

“Trên 100 tập đoàn lớn thế giới có tiền khá lớn, tên tuổi tốt đang nhìn ngó Việt Nam, họ đang hiện diện, đang trao đổi với Việt Nam. Muốn biết giá trị của mình, hãy chơi với người giỏi nhất thế giới, họ sẽ cho mình hiểu lợi thế của mình để chơi với họ…”

Ông Don Lam, CEO Vina Capital

Đó là nhận định của chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành trong CEO Forum 2020 với chủ đề “Chuỗi cung ứng toàn cầu mới – Vận hội thực hay sự huyễn hoặc”.
"Đây chính là thời điểm để tư duy lại, thiết kế lại, xây dựng lại doanh nghiệp"
 
Chỉ còn hơn một tháng nữa sẽ kết thúc năm 2020, một năm mang dấu ấn rất đặc biệt với doanh nghiệp Việt Nam, khi khủng hoảng dịch Covid-19 kéo dài gây đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong bối cảnh đó, sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng toàn cầu mới được cho là một vận hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam, tuy nhiên đối chiếu với thực tại đang diễn ra, đó là vận hội thực sự hay chỉ là sự huyễn hoặc?
 
Đặt ra nhiều góc nhìn thực tiễn, CEO Forum 2020 đã mang lại không khí tranh biện nảy lửa và hào hứng từ đầu đến cuối giữa các doanh nhân, chuyên gia kinh tế và người làm tư vấn.
 
Dưới góc nhìn của một chuyên gia kinh tế, ông Võ Trí Thành – Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh tỏ ra khá lạc quan: “Cơ hội thì lúc nào cũng có, là cách để mình thử sức vươn tới chân trời mới. Còn vận hội là thời khắc, là chất đột phá, quyết liệt cao hơn rất nhiều so với cơ hội. Covid-19 không chỉ kiểm tra sức khoẻ doanh nghiệp, mà thử sức doanh nghiệp trước vận hội mới, liệu chúng ta có dám tư duy lại tương lai không?
 
Quá trình hình thành, vận động chuỗi cung ứng đi liền chi phí chuyển dịch nguồn lực, con người, các dòng chảy đầu tư… tạo nên chuỗi cung ứng khác nhau. Với chuyển đổi số, sự dịch chuyển này nhờ được kết nối, đã trở thành làn sóng dịch chuyển mạnh mẽ hơn.
 
Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung lại bổ sung thêm vấn đề địa chính trị và vấn đề đối tác. Trước đây, sự dịch chuyển này cơ bản dựa trên lợi thế so sánh. Bây giờ có yếu tố địa chính trị chi phối đến những mặt hàng chiến lược và công nghệ lõi, vấn đề sức mạnh lâu dài của quốc gia… không chỉ phụ thuộc vào thị trường.
 
Chính vì vậy, dòng chảy đầu tư, lựa chọn khách hàng, cách sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh mới sẽ thay đổi. Kể cả tính thời điểm, cách chơi, sự đồng hành của đối tác, chính phủ.
 
Đó là vận hội của Việt Nam, vì Việt Nam có đầy đủ mọi biến số, là vùng kết nối năng động, chơi với các đối tác hay nhất, nhà đầu tư giỏi nhất, phần lớn là các đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam. Tất cả tạo ra một sức bật lớn cho doanh nghiệp Việt Nam.
 
Đây chính là thời điểm để tư duy lại, thiết kế lại, xây dựng lại doanh nghiệp. Lịch sử doanh nghiệp Việt Nam muốn trường tồn bền vững phải bám theo xu thế, va đập chủ nghĩa bảo hộ, biệt lập, dân chủ cực đoan, lối sống tiêu dùng xanh an toàn hơn, dòng chuyển tài chính, VUCA biến động, bất định, mơ hồ, phức tạp… Đó là xu thế, cộng với sự dịch chuyển này, nếu chậm 3 – 5 năm, chắc chắn chúng ta sẽ bỏ lỡ vận hội này”.

Yếu tố vận hội là không theo quy luật, bất ngờ, như Covid-19. Trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang căng thẳng, cả châu Âu vẫn đang tiếp tục chống dịch Covid-19, liệu chúng ta có thể sắp lại bàn cờ cho cuộc chơi mới không? Quan sát cách các nhà đầu tư FDI đi cùng doanh nghiệp Việt Nam, đã có tín hiệu gì để bộc lộ vận hội này?
 
Ông Võ Trí Thành cho biết: “Thực ra dòng chảy từ Trung Quốc, Hàn Quốc đã có trước Covid-19, khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại mới, cuộc chiến Mỹ – Trung càng tạo sức ép cho doanh nghiệp nội địa. Trong lĩnh vực thương mại, 70% doanh nghiệp là xuất khẩu, miếng bánh ấy ngày càng to ra, dù tỷ lệ FDI là cao. Phải nhìn nhận cả 2 vế, doanh nghiệp trong nước vừa cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, vừa chia miếng bánh ấy với họ.
 
Dựa trên tỷ lệ xuất khẩu được hưởng ưu đãi từ các hiệp định thương mại đã ký, có tin tích cực, trong 3 tháng qua có trên 20 ngàn đơn xuất khẩu được hưởng ưu đãi thuế quan, giá trị trên 1 tỷ USD, chủ yếu với hàng nông sản. Đây là con số từ FTA. Doanh nghiệp Việt ít nói về điều đó, nhưng họ được hưởng lớn lắm đó, còn CPTPP cũng khá khả quan.
 
Ngoài chuỗi doanh nghiệp Mỹ, châu Âu, chuỗi doanh nghiệp FDI thuộc các nước Đông Nam Á đã có, vấn đề phải biết chọn, chơi với đối tác nào? Chúng ta có điểm yếu, nhưng điểm mạnh của ta là cảng, dịch vụ hỗ trợ… Kết nối cho Samsung phần lớn là doanh nghiệp Việt Nam, từ bếp núc, vận chuyển, kho bãi, vệ sĩ… đều do doanh nghiệp Việt cung cấp. Chúng ta đôi khi cũng nhầm, đóng góp Samsung cho Việt Nam không nhỏ. Chúng ta thu hút không chỉ đại bàng mà cả doanh nghiệp vừa và nhỏ như của Nhật Bản, Thái Lan là cao hơn nhiều… Cơ hội theo tôi là gấp 3 lần so với mối nguy cơ.
 
Về nghệ thuật đàm phán, khi gia nhập FTA, chúng ta chưa hiểu ngôn ngữ thương mại quốc tế, bây giờ Việt Nam đã có một đội đàm phán thiện chiến hơn nhiều, chúng ta đã đàm phán TPP là cuộc chơi lớn nhất, chơi với người giỏi, chuyên nghiệp, một ngày cũng trở thành người giỏi, khả năng kết nối, đẳng cấp được nâng lên.
 
Cơ hội gắn với nguyên tắc xuất xứ, nhưng FTA còn 2 hàm nghĩa nữa, rất nhiều sân chơi thì nguyên tắc xuất xứ là khác nhau, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chọn nước có năng lực phù hợp, ví dụ như xuất khẩu sợi sang Hàn Quốc chẳng hạn. Cần hiểu rõ nguyên tắc xuất xứ để tăng giá trị nội địa, hưởng thuế suất 0%, ăn được giá trị gia tăng cao hơn.
 
Chúng ta chỉ có thể phát triển trong sự liên kết với đối tác nước ngoài, cả liên kết xuôi và liên kết ngược, từ đó đặt bài toán ngược lại cho CEO, hình thành chiến lược 2021 trên quy mô doanh nghiệp đang có để tạo sự bứt phá”.
 
Dưới góc nhìn của một nhà đầu tư tài chính, một nhà tư vấn, kinh doanh nhiều kinh nghiệm, ông Don Lam, CEO Vina Capital lại có cái nhìn cẩn trọng hơn: “Tôi cũng thấy có cơ hội lớn hơn. Doanh nghiệp Việt Nam muốn đột phá, nhưng hãy tập trung vào việc mình đang làm, và làm cho thật chuyên nghiệp trước đã. Hiện rất nhiều doanh nghiệp đang sản xuất rất thành công lại chuyển sang làm địa ốc, doanh nghiệp nào cũng muốn làm địa ốc. Đó là cách đi sai lầm. Hãy nâng cấp thế mạnh mà mình đang có đi, lúc ấy mới có thể tận dụng được vận hội lớn này.
 
Tôi muốn chúc mừng các bạn CEO ngồi đây, từ quý I đến quý IV năm 2020 đều bị ảnh hưởng bởi Covid-19, mưa bão liên miên, suy giảm kinh tế toàn cầu trầm trọng mà vẫn tồn tại được là may mắn lắm rồi.
 
Năm 2020 chúng tôi rất khó khăn về nguồn vốn, với các doanh nghiệp, đó cũng là vấn đề nhức đầu nhất. Cơ hội năm 2021 ai cũng nói một số doanh nghiệp nước ngoài sẽ vào Việt Nam, nhưng trong số 20% nhà sản xuất từ Trung Quốc chuyển ra ngoài, không phải ai cũng nghĩ đến Việt Nam. Có 3 chỗ họ có thể dịch chuyển, đó là Mexico, Indonesia, Ấn Độ. Việt Nam có thể rất khó khăn.
 
Nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam phải suy nghĩ rất nhiều, giá đất khu công nghiệp đang tăng rất nhanh, ngoài ra còn vấn đề nhân công nữa. Chính phủ phải nghĩ cách thu hút đầu tư năm 2021. Với doanh nghiệp là chủ khu công nghiệp, phải đón họ thế nào? Kể cả các chuỗi cung ứng? Bão lụt cuối năm cũng đang đặt doanh nghiệp trước nhiều khó khăn…”
 
Kết nối để tạo ra sức mạnh, biến cá hoá rồng
 
Chia sẻ về bí quyết để các doanh nghiệp tư nhân có thể biến từ cá thành rồng, ông Võ Trí Thành gói gọn trong 1 từ “kết nối”.
 
“Các anh chị có thể làm đa ngành. Nếu liên kết dọc thì tốt, vì tối ưu hoá chi phí, kết nối được với nhau để tối ưu hoá lợi ích. Nếu liên kết ngang, vừa làm nông nghiệp vừa làm ô tô sẽ khiến chi phí năng lực quản trị rất lớn, khi vướng mắc 1 khâu thì nguồn lực, tâm trí sẽ bị chia ra hơn là liên kết dọc. Đó là sự đánh đổi giữa chi phí, lợi ích.
 
Cơ hội đến với nhiều người, nhưng vận hội thì bao gồm năng lực, nguồn lực, tuỳ thuộc sự lựa chọn phát triển bền vững không. Sóng cả mà thuyền chưa to thì nguy hiểm.
 
Khi nói về chuỗi và mạng, câu hỏi đặt ra ai là người dẫn đầu chuỗi? Các thương hiệu toàn cầu đều đi đầu trong công nghệ, chuỗi phân phối, chuỗi sản xuất. Doanh nghiệp nào nắm được 3 điều đó sẽ làm chủ chuỗi.
 
Cơ khí có 2 cách tham gia chuỗi và mạng để có vị thế mạnh hơn, đó là sản xuất chi tiết rất nhỏ nhưng chỉ một mình doanh nghiệp đó làm được, đây là cách doanh nghiệp nhỏ có thể chơi với các doanh nghiệp FDI dẫn đầu, như vậy cách giảm thiểu rủi ro và cách mặc cả sẽ khác”.
 
Doanh nghiệp đang từng bước thay đổi để tồn tại, phát triển trở lại ngay sau đại dịch, vậy vai trò của nhà nước ở đâu trong thời điểm lịch sử này? Làm thế nào người chèo và người cầm lái, triển khai và thực thi chính sách hoà hợp làm một, để tạo sự bứt phá, khiến luồng lạch bị ách tắc được khai thông?
 
Đề cập đến chính sách vĩ mô, ông Võ Trí Thành lặng lại: “Theo khảo sát lớn nhất 150 ngàn doanh nghiệp trong 850 ngàn doanh nghiệp Việt Nam vào tháng 9/2020, chỉ có 17,8% doanh nghiệp nhận được gói ưu đãi của chính phủ, dù chính sách ra rất kịp thời từ tháng 3 – 4, trong tháng 6 – 7 là giải ngân xong với 3 gói hỗ trợ lớn nhất.
 
Đó là con số khá buồn, hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả, chưa mang ý nghĩa lớn lao.
 
Chính phủ đang bàn gói hỗ trợ thứ hai “diện” vẫn rất lớn, kéo dài hơn, hy vọng sau đại hội Đảng, chính phủ quyết và làm ngay.
 
Tuy nhiên khảo sát này cũng đưa ra những tín hiệu tích cực. Số doanh nghiệp chết và tạm dừng hoạt động khá cao, nhưng đa số vẫn vượt khó, không chỉ cầm cự, mà bắt kịp với xu thế mới, thay đổi phương thức kinh doanh, quản trị rủi ro, tiếp cận thị trường mới, đào tạo nhân sự…
 
Có 47% doanh nghiệp trả lời đã liên kết với nhau để vượt khó, chia sẻ đơn đặt hàng, cho trả chậm, 37% thực hiện chuyển đổi số… đó là những con số rất tích cực.
 
Một điều hay nữa là chính phủ bây giờ vẫn còn tiền, con số kỷ lục, gần 100 tỷ USD, có nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp, ổn định kinh tế vĩ mô…”.

Ông Don Lam nhấn mạnh khó khăn về dòng tiền mặt của doanh nghiệp sẽ kéo dài đến năm 2021: “Doanh nghiệp VinaCapital quản lý, dòng tiền mặt rất khó khăn. Năm 2021 doanh nghiệp phải bảo đảm nguồn tiền mặt của mình, vì rất khó để lấy tiền hỗ trợ từ chính phủ. Lo lắng nhất của tôi là khi Covid tiếp tục lan rộng thì tiêu dùng thế giới sẽ không mua hàng của mình nữa. Thứ nhì lo cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung nóng lên, Việt Nam sát điểm nóng. Thứ 3 nhà đầu tư luôn quan tâm đến địa chính trị của Việt Nam. Chuẩn bị cho khủng hoảng sắp tới, doanh nghiệp phải quản trị dòng tiền tốt nhất.
 
Theo bản tin tài chính cách đây 2 tuần, có khả năng cuối năm 2021 ngành dệt may mới được hưởng lợi từ FDI. Dệt, may, nhuộm phải đi liền với nhau, nhưng 4 năm nay chính phủ không cho phát triển nhuộm. Rõ ràng chính sách không cho ngành dệt may được hưởng lợi ngay lập tức.
 
Vậy doanh nghiệp Việt có giá trị gì để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu? Phải tự vấn chính mình cốt lõi tạo giá trị là gì? Khi nói về sản phẩm, bao nhiêu phần trăm cấu hình cho hệ số phòng ngừa rủi ro và tái đầu tư nghiên cứu? Khi không làm được hai điều đó thì làm sao có thế mạnh tham gia chuỗi? Tôi biết nhiều doanh nghiệp miền Trung mà chúng tôi đầu tư rất khó khăn. Chúng tôi muốn tập trung đầu tư cho doanh nghiệp mạnh về sản phẩm.
 
Về đầu tư, trong năm 2020 nhiều nhà đầu tư nhìn về Đông Nam Á, vì GDP tăng trên 2%, còn các nước khác là âm và 1. Nhưng rất tiếc do ảnh hưởng Covid-19, nhiều nhà đầu tư không đến Việt Nam được, đó là khó khăn, tôi tin năm 2021 nhiều nhà đầu tư sẽ vào Việt Nam…”
 
Một vị doanh nhân đến từ miền Trung đặt câu hỏi với ông Võ Trí Thành: “Tôi đang lo các tỉnh miền Trung sẽ đối mặt huyễn hoặc nhiều hơn là vận hội. Tháng 10 đến giờ miền Trung đã đối mặt bão covid, bão lũ hoành hành dữ dội, hàng trăm doanh nghiệp tan vỡ, tôi sợ năm 2021 Việt Nam sẽ đối diện bão suy thoái kinh tế Domino, giải pháp nào hạn chế tối đa huyễn hoặc? Nông nghiệp đang lên ngôi nhưng bão lũ ập đến, bao giờ doanh nghiệp mới có được gói cứu trợ từ Chính phủ?
 
Ông Thành chia sẻ: “Chúng ta đều nhìn thấy thách thức, khó khăn, tôi đã trải nghiệm hơn 40 năm cải cách, đổi mới, tôi hiểu điều ấy.
 
Năm nay khó khăn rất nhiều, nhưng có 2 ý rất quan trọng, nếu nói năm nay là khó khăn, kể cả năm sau cũng rất khó, nhưng khó thế nào thì khó, chưa thể khó bằng Việt Nam những năm 80. Hàng năm nhập 1 triệu tấn gạo để tồn tại, cả đất nước không một xu tiết kiệm mà chúng ta vẫn vượt qua được vũ môn để thực hiện bằng được công cuộc đổi mới.
 
Tất cả giai đoạn Việt Nam vượt vũ môn đều là thời gian khủng hoảng, chiến tranh. Giờ cũng là khủng hoảng. Tôi tin chắc các anh chị ngồi đây đa số đều vượt qua được.
 
Vẫn biết ưu thế đất nước những năm 80 đã thuộc về quá khứ, còn ưu thế của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang là gánh nặng. So sánh Việt Nam cái gì cũng khập khiễng, nhưng điểm tôi nhấn mạnh là văn hoá Việt, sức sống của người Việt. Nếu chúng ta không có được điều ấy thì không nên làm kinh doanh.
 
Phải có khát vọng ấy, có thể không nhanh, không giỏi bằng thế giới, nhưng nếu không có chất Việt ấy thì không có hôm nay. Ba bốn thế hệ doanh nghiệp Việt đã đóng góp rất lớn cho kinh tế Việt Nam nhờ chất Việt ấy.
 
Gói hỗ trợ lần thứ nhất cũng chỉ cơ bản để tồn tại, nhưng doanh nghiệp Việt vẫn gắng sức cầm cự, vượt khó, chuyển đổi, để khi khủng hoảng qua đi có cơ hội bứt phá. Các hiệp định thương mại tư do cho các bạn cơ hội lớn hơn để nhập cuộc chơi lớn hơn”.
 
Nếu kể tên 5 năng lực cơ bản bảo đảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, rất ít doanh nghiệp Việt Nam trả lời chính xác, ai cũng chỉ nói đến tiền. Làm thế nào để tham gia cuộc chơi này nếu không hiểu rõ điều đó? Thương hiệu Việt tại EU còn chưa rõ nét, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ cam kết sở hữu trí tuệ với rào cản, để hiểu luật chơi một cách minh bạch với các thị trường mà chúng ta hướng đến.
 
Ông Thành cho biết: “Doanh nghiệp muốn hiểu, nắm được sự vận hành của chuỗi giá trị, nên nhìn vào 3 ngành gồm ô tô, da giày, điện tử. Có 5 yếu tố để doanh nghiệp Việt có thể bật sáng được gồm thể chế xã hội, sự khác biệt về khoa học công nghê, thương hiệu đẳng cấp, có khả năng tái đầu tư, khả năng doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận được với chính sách nhà nước. Phải trả lời được 5 câu hỏi này mới có thể trả lời được câu hỏi vận hội.
 
Sức mua và cách tiêu dùng của khối ASEAN, nói rộng hơn là Ấn Độ, khu vực tầng lớp trung lưu phát triển mạnh nhất thế giới, sức mua rất lớn. Chưa kể du lịch, tiêu khiển, giải trí, phân phối bán lẻ… Liệu doanh nghiệp Việt có khả năng sáng tạo để đáp ứng cách tiêu dùng mới xanh hơn, nhân văn hơn, an toàn hơn?
 
Trên 100 tập đoàn lớn thế giới có tiền khá lớn, tên tuổi tốt đang nhìn ngó Việt Nam, họ đang hiện diện, đang trao đổi với Việt Nam. Muốn biết giá trị mình mang lại là gì, hãy chơi với người giỏi hơn, họ sẽ cho mình hiểu lợi thế giá trị của mình là gì để chơi với họ. Lợi thế ấy nằm ở thiết kế, phân phối, dịch vụ hỗ trợ, giải pháp kèm theo…
 
Sẽ là sự chuyển hoá nếu chúng ta chỉ nhìn thấy ánh sáng mà không nhìn thấy bóng tối, bẫy chúng ta đang đối mặt chính là bẫy thu nhập trung bình. Còn với sản xuất kinh doanh, cái bẫy lớn nhất là sự đố kỵ và tự hài lòng với chính mình. Ngoài ra còn bẫy chi phí đắt, bẫy tự do hoá thương mại… Để phát huy lợi thế so sánh của đất nước, không thể phát triển bởi lao động giá rẻ, phải nâng cấp chuỗi giá trị. Muốn thế phải kết nối với người giỏi hơn mình.
 
Quản trị khủng hoảng tốt nhất là thay đổi. Mang tính chiến lược, dài hơi, không chỉ ở tầm đất nước, doanh nghiệp, mà cả gia đình, con cái, như cách thức nhìn về tương lai.
 
Tôi rất ấn tượng với câu nói của Clinton, “Cái giá phải trả làm theo cách cũ sẽ lớn hơn rất nhiều làm theo cách mới”.

(Nguồn: The Leader)