Thúc đẩy nguồn lực tư nhân trong một quốc gia khởi nghiệp

Trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế mạnh mẽ, khu vực kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam.

Phát biểu tại phiên đối thoại chính sách cấp cao tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2019 với sự tham gia của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình, Trưởng ban tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính, cựu Ngoại trưởng Mỹ John Kerry… nữ CEO Vietjet có những thông tin thú vị với  đề xuất chính sách hướng tới xây dựng những tập đoàn tư nhân là đầu tàu cho nền kinh tế, mang thương hiệu quốc gia lớn mạnh như Samsung, Toyota, Alibaba….của các nước.

 
Chiều 17.1, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình đã đồng chủ trì phiên toàn thể và đối thoại chính sách cấp cao với chủ đề “Kinh tế Việt Nam năm 2018 và Triển vọng năm 2019: Củng cố nền tảng cho tăng trưởng nhanh và bền vững” tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2019.
 
Tham dự phiên đối thoại còn có Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Tư Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính, Các Bộ trưởng, Phó thống đốc Ngân hàng nhà nước cùng đông đảo 2000 đại biểu gồm đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành, các doanh nghiệp, chuyên gia, cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế như World Bank, ADB, IMF, Cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry…
 
“Chúng ta cần tập trung đào tạo những con người có trình độ, có năng lực, có khả năng thì họ đều có thể tham gia đóng góp tốt, tích cực vào bất cứ khu vực nào của xã hội, của nền kinh tế, từ quản lý nhà nước, nghiên cứu đào tạo, giáo dục y tế hay doanh nghiệp nhà nước, nước ngoài, tư nhân”, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính nhấn mạnh.
 
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế mạnh mẽ, khu vực kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam, phiên thảo luận trong khuôn khổ diễn đàn về phát triển kinh tế tư nhân và củng cố liên kết giữa khu vực tư nhân trong nước với khu vực đầu tư nước ngoài được quan tâm đặc biệt. Bà Nguyễn Thị Phương Thảo, Tổng giám đốc Vietjet Air là đại diện cho khối doanh nghiệp tư nhân đã có phát biểu thú vị, đóng góp vào những chính sách cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam.

 
CEO Vietjet Nguyễn Thị Phương Thảo
 
“Việt Nam đang nắm giữ một tương lai tươi sáng nhờ vào khu vực kinh tế tư nhân và người dân. Nếu được phát huy đúng và hiệu quả thì sẽ tiếp nối những thành công và kéo theo đó là sự phát triển thịnh vượng của đất nước”, CEO Vietjet dẫn lại lời một lãnh đạo của Ngân hàng Thế giới (WB) trong phần mở đầu chia sẻ của mình, bà Nguyễn Thị Phương Thảo thể hiện sự tin tưởng của mình.
 
Mỗi năm kinh tế tư nhân đang tạo ra 1,2 triệu việc làm, hiện có khoảng trên 750.000 doanh nghiệp đóng góp tới 43% GDP, như trong lĩnh vực dịch vụ thì khu vực tư nhân đóng góp tới 85% GDP khu vực này. Chính phủ đã đưa thông điệp mạnh mẽ về một chính phủ kiến tạo, trong sạch, một chính phủ hành động với những động thái cởi mở về cơ chế, thể chế cho kinh tế tư nhân phát triển với hàng loạt các hoạt động.
 
Trong ngành hàng không, nữ CEO cho biết, sự tấp nập của 21 cảng hàng không trên cả nước phản ánh sức sống của nền kinh tế Việt Nam khi có thống kê rằng cứ 1% tăng trưởng của hàng không sẽ đồng hành tương ứng với 0,5% tăng trưởng GDP và điều này cũng đúng ở Việt Nam khi hàng không tăng trưởng bình quân 14-15% các năm qua còn GDP đạt trên dưới 7%.
 
“Năm 2018, tiếp tục mở mang các đường bay quốc tế tới các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Malaysia, Hong Kong, Trung Quốc; thu hút đầu tư và du khách tới Việt Nam qua những chuyến bay được cộng đồng hàng không quốc tế đánh giá chất lượng cao. Tổng doanh thu đạt 52.135 tỷ đồng, công ty tiếp tục nằm trong nhóm 50 doanh nghiệp nộp thuế lớn nhất của cả nước với số tiền thuế, phí thu nộp ngân sách lên tới 6.193 tỷ đồng, tăng 47,5% so với năm 2017 tương đương với một tỉnh trung bình.”
 
“Chúng tôi vui khi mang đến cơ hội bay cho hàng triệu người, là nhân tố thúc đẩy những đổi mới tích cực của ngành Hàng không Việt Nam từ luật pháp chính sách, tới phương thức quản lý và kế hoạch liên tục mở rộng, nâng cấp xây mới các sân bay, phát triển chuỗi cung ứng dịch vụ hàng không. Vietjet thu hút đầu tư tài chính nước ngoài thông qua các giao dịch máy bay mà không làm tăng nợ quốc gia, thu hút sản xuất linh kiện máy bay và hàng không vào các khu công nghiệp ở Việt Nam; thu hút các hoạt động đầu tư nước ngoài vào các cơ sở bảo dưỡng kỹ thuật máy bay. Học viện hàng không bao gồm thiết bị buồng lái mô phỏng đào tạo phi công tầm vóc quốc tế và khu vực đã khai trương dịp Thủ tướng Pháp thăm Việt Nam tháng 11.2018.”
 
 
Các đại biểu quốc tế trao đổi sôi nổi bên lề Diễn đàn kinh tế Việt Nam 2019
 
Nữ tỉ phú tự thân đầu tiên của khu vực Đông Nam Á cũng chia sẻ một số đề xuất ở vai trò của một doanh nhân tới Thủ tướng Chính phủ và Ban kinh tế trung ương, để Việt Nam thực sự trở thành một quốc gia kiến tạo, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân.
 
Theo đó, CEO Vietjet cho rằng cần đẩy nhanh hơn tốc độ cổ phần hóa khu vực doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng để hạn chế gây ảnh hưởng tới tài chính vĩ mô, giảm triển vọng tăng trưởng.
 
Bà Nguyễn Thị Phương Thảo cũng đề xuất Chính phủ cần có cơ chế, chính sách, biện pháp, để khai thác tốt nguồn lực tư nhân cho phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm hạ tầng hàng không, sân bay, tận dụng tốt cơ hội của cuộc cách mạng 4.0 để nâng cao năng suất chất lượng trên toàn xã hội.

(Nguồn: Nhịp cầu đầu tư)

Shopee và Tiki đánh bật Lazada xuống hạng 3, chia nhau ngôi nhất nhì về số lượng truy cập quý 4/2018

Theo báo cáo mới nhất của Statista, sau một năm hoạt động sôi nổi, ngành TMĐT Việt Nam chính thức lọt Top 6/10 thị trường TMĐT lớn nhất thế giới với tổng doanh thu đạt 2.269 triệu USD, tăng 29,4% so với năm ngoái; số lượng khách hàng mua hàng trên trang TMĐT đạt 49,8 triệu người, tăng 2,6%; trong đó xu hướng mua sắm trên di động chiếm đến 72%.
 
 
Đáng chú ý, những diễn biến trong quý 4/2018 đã làm thay đổi rõ nét cơ cấu xếp hạng giữa các sàn TMĐT trong cả năm. Đã có những cuộc rượt đuổi và bứt phá giữa những sàn thương mại điện tử ở thị trường Việt Nam thông qua những chiến dịch khủng, chương trình khuyến mãi dài hơi, gây chú ý.
 
Shopee đã vươn lên vị trí dẫn đầu với 123,2 triệu lượt truy cập trở thành sàn thương mại điện tử có lượng truy cấp số 1 của Việt Nam. Tiki cũng đã vượt qua Lazada giữ vị trí số 2 về lượng truy cập trang trong quý 4/2018 với 107,9 triệu lượt truy cập, kế đến là vị trí thứ 3 Lazada với 97,6 triệu lượt, và trang Thế Giới Di Động có 88,3 triệu lượt, sàn Sendo bám sát sau đó với 76,2 triệu lượt.
 
Cả 4 sàn thương mại điện tử VN cũng cho thấy sức bật đáng gườm khi chính thức lọt vào Top 10 trang thương mại điện tử có lượng truy cập cao nhất Đông Nam Á trong năm 2018, theo iPrice Insights và SimilarWeb.
 
 
Năm 2018 cũng là năm chứng kiến nhiều thông tin về vốn đầu tư cho các trang TMĐT, cũng như những chiến dịch truyền thông mới lạ và được lan truyền mạnh mẽ từ những doanh nghiệp này.
 
Ngay từ đầu năm, Tiki đã nhận thêm 122 tỷ đồng đầu tư từ VNG, sau đó là khoản đầu tư từ JD, với số vốn đầu tư được đồn đoán lên đến 44 triệu USD (gần 1.000 tỷ đồng). Cũng trong năm 2018, doanh nghiệp này gây ấn tượng với chiến dịch truyền thông "Trời ơi, tin được không" với sự tham gia của Trường Giang và Nhã Phương truyền tải thông điệp giao hàng nhanh trong 2 tiếng và sale 91%.
 
Tương tự, sau khi nhận thêm 51 triệu USD từ 8 nhà đầu tư, dẫn đầu bởi SBI Holdings của Nhật Bản, Sendo cũng đã bắt đầu cho thấy độ phủ dày đăc trên phương tiện truyền thông với hình ảnh chị đại Sen Đỏ Mỹ Tâm.
 
Shopee Việt Nam nhận thêm 50 triệu USD đầu tư từ SEA, và vươn lên vị trí đầu bảng về lượng truy cập năm 2018. Song song đó là hoạt động truyền thông được đẩy mạnh với việc sử dụng hàng loạt những gương mặt nổi bật như hoa hậu Tiểu Vi, các thành viên đội tuyển U23 Việt Nam.
 
Lazada Đông Nam Á được Alibaba đầu tư thêm 2 tỉ USD cũng là yếu tố thúc đẩy Lazada Việt Nam tiếp tục trụ vững trên thị trường TMĐT năm vừa qua. Về các hoạt động truyền thông, Lazada khá vắng trên phương tiện mạng xã hội. Nhưng với "đại tiệc mua sắm" tháng 11/2018, doanh nghiệp này đã phủ mạnh thương hiệu ở các kênh offline hơn, mang thương hiệu đến gần người tiêu dùng.
 
 
Tuy vậy, theo báo cáo, những rào cản về niềm tin thị trường TMĐT Việt Nam vẫn đang còn trong năm 2018. Các bài toán mà nhà kinh doanh thương mại điện tử đang đối mặt là chất lượng hàng hóa, dịch vụ sau bán hàng, hình thức thanh toán.
 
TMĐT tiếp tục cho thấy sự cạnh tranh khốc liệt, năm 2018, ngành TMĐT Việt Nam đã đạt được tốc độ phát triển 22%, tuy nhiên, không ít ông lớn đã phải thoái lui trong cuộc chơi sôi động này.
 
Ngoài ra, thị trường vẫn chưa được khai thác được hết tiềm năng khi Việt Nam có đến 53% dân số sử dụng internet và gần 50 triệu thuê bao sử dụng smartphone, cùng độ tuổi mua sắm online từ 25-29 tuổi chiếm 55%, chủ yếu là nhân viên văn phòng.

(Nguồn: Trí thức trẻ)

10 dự đoán về kinh tế toàn cầu năm 2019

IHS Markit dự đoán tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm từ 3,2% từ năm 2018 xuống còn 3,1% trong năm 2019, và tiếp tục giảm trong các năm tới.
 
Từ năm 2018, kinh tế toàn cầu bắt đầu tăng trưởng mạnh mẽ và đồng bộ, Nhưng khi năm 2018 trôi qua, đà phát triển trở nên chậm dần, nhạt nhòa, các xu hướng tăng trưởng đi lệch dự kiến ban đầu. Nền kinh tế Mỹ tăng tốc nhờ các chính sách kích thích tài khóa vào đầu năm nay, trong khi đó, kinh tế của EU, Anh, Nhật Bản và Trung Quốc bắt đầu suy yếu. Những khác biệt này sẽ tiếp tục tồn tại trong năm 2019.
 

 
Một rủi ro khác tồn tại trong năm nay là sự sụt giảm mạnh về tăng trưởng thương mại thế giới, từ mức hơn 5% vào đầu năm 2018 xuống gần bằng 0% vào cuối năm. Các xung đột thương mại leo thang đẩy giá trị thương mại thế giới xuống thấp, kéo theo sự sụt giảm mạnh trong nền kinh tế toàn cầu. Đồng thời, những ảnh hưởng của việc tăng lãi suất, tăng vốn chủ sở hữu và biến động trên thị trường hàng hóa cho thấy điều kiện tài chính thế giới đang thắt chặt. Những rủi ro này báo hiệu nền kinh tế toàn cầu sẽ nhạy cảm, dễ tổn thương hơn trước những biến động trong tương lai, kéo theo đó là khả năng suy thoái kinh tế gia tăng trong vài năm tới.
 
1. Kinh tế Mỹ sẽ vượt mức tăng trưởng chung

 
Năm 2018, tăng trưởng Mỹ đạt 2,9%, mặc dù sự phát triển này chủ yếu do chính sách tài khóa dưới hình thức giảm thuế và tăng chi tiêu. Tác động của biện pháp này vẫn duy trì đến năm 2019, nhưng sẽ giảm dần trong các năm sau. Dự kiến, tăng trưởng đạt 2,6% trong năm 2019 – giảm so với năm 2018, nhưng vẫn sẽ cao hơn mức tăng trưởng chung toàn cầu.
 
2. Tốc độ phát triển của châu Âu sẽ chậm hơn
 
Tăng trưởng của EU đạt đỉnh vào nửa cuối năm 2017 và giảm dần kể từ đó. IHS Markit dự đoán mức tăng trưởng này sẽ giảm còn 1,5% trong năm 2019. Các biến động chính trị bao gồm Brexit, những thách thức đối với chính phủ Emmanuel Macron và việc Thủ tướng Đức Angela Merkel "nghỉ hưu" là những yếu tố khiến tình hình kinh tế ngày càng đi xuống. Các yếu tố khác như thắt chặt các điều kiện tín dụng và căng thẳng thương mại leo thang cũng tác động đến sự suy giảm tăng trưởng ở châu Âu.
 
3. Sự phục hồi của Nhật Bản vẫn còn yếu, tăng trưởng kinh tế dưới 1% vào năm 2019
 
Năm 2018, nền kinh tế Nhật dự kiến tăng trưởng 0,8%. Trong năm 2019, tỷ lệ này chỉ tăng nhẹ lên 0,9%. Sự suy giảm của nền kinh tế Trung Quốc và hậu quả do căng thẳng thương mại giữa Mỹ – Trung đã hạn chế sự phát triển của Nhật Bản, Mặc dù người Nhật nổi tiếng với năng suất làm việc cao, tuy nhiên, việc lực lượng lao động giảm sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Về Abenomics, một gói kinh tế vĩ mô dựa trên “3 mũi tên” gồm nới lỏng tiền tệ, kích thích tài chính và cải cách cơ cấu, đã cho thấy những hạn chế.
 
4. Trung Quốc tiếp tục suy giảm

 
Tốc độ tăng trưởng hàng quý của Trung Quốc liên tục giảm kể từ đầu năm 2017, chạm mức thấp nhất trong 10 năm vào quý III/2018. Tốc độ mở rộng hàng năm chậm lại từ 6,7% trong năm 2017 xuống còn 6,6% vào năm 2018, và giảm xuống còn 6,3% trong năm 2019. Để đối phó với những biến động kinh tế gần đây, bao gồm cả tác động thuế quan của Mỹ, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc đã đưa ra một loạt biện pháp tài chính và tiền tệ nhằm hỗ trợ tăng trưởng và ổn định thị trường tài chính.
 
Tuy nhiên, những biện pháp này vẫn còn khá khiêm tốn. Tăng trưởng tín dụng tiếp tục bị kìm hãm bởi các khoản nợ khổng lồ và cam kết giảm nợ trong trung và dài hạn của chính phủ. Mặt khác, các nỗ lực kích thích kinh tế của chính phủ có thể phát huy tốt hơn nếu căng thẳng thương mại với Mỹ tiếp tục leo thang và tăng trưởng của Trung Quốc bị tổn hại nghiêm trọng.
 
5. Tăng trưởng của các thị trường mới nổi giảm xuống còn 4,6% vào năm 2019
 
Một số nền kinh tế, gồm: Brazil, Ấn Độ và Nga đã tăng trưởng nhẹ trong năm 2018, trong khi Argentina, Nam Phi và Thổ Nhĩ Kỳ phải hứng chịu những áp lực tài chính và sự suy thoái. Trong tương lai, các thị trường mới nổi sẽ đối mặt một số bất lợi, gồm: tăng trưởng chậm ở các nền kinh tế đã phát triển và mức sụt giảm trong tăng trưởng thương mại thế giới, đồng USD mạnh, các điều kiện tài chính bị thắt chặt, bất ổn chính trị gia tăng ở các quốc gia như Brazil và Mexico.
 
6. Thị trường hàng hóa có triển vọng
 
Trong năm 2019, nhu cầu của thị trường hàng hóa tăng trưởng nên sự sụp đổ giá cả như năm 2015 là điều không thể. Tuy nhiên, sự biến động trong thị trường này vẫn tiếp tục, đặc biệt là ở các thị trường dầu mỏ. Dự đoán, giá dầu sẽ tăng trong thời gian tới, trung bình khoảng 70 USD/ thùng trong năm 2019.
 
7. Tỷ lệ lạm phát toàn cầu duy trì ở mức gần 3,0%

 
Bên cạnh đó, lạm phát ở các nước đã phát triển dự đoán là 2,0%.
 
Nhiều nền kinh tế sẽ đối mặt với những áp lực lạm phát khi chênh lệch giữa GDP thực tế và GDP tiềm năng ngày càng bé và tỷ lệ thất nghiệp giảm. Trong một số trường hợp, các yếu tố này ở mức thấp trong nhiều thập kỷ, sẽ gây nên áp lực giảm phát.
 
8. Fed và một vài ngân hàng trung ương khác sẽ tăng lãi suất
 
Cục dự trữ Liên bang Mỹ có thể tăng lãi suất 3 lần trong năm 2019. Các ngân hàng trung ương khác bao gồm ngân hàng Anh, Canada và một số ngân hàng trung ương thuộc các thị trường mới nổi như Brazil, Ấn Độ, Nga có thể cũng làm hành động tương tự.
 
Các ngân hàng Châu Âu sẽ không tăng lãi suất cho đến đầu năm 2020. Dự kiến, ngân hàng Nhật Bản cũng sẽ không dừng chính sách lãi suất âm cho đến năm 2021. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đi theo hướng ngược lại, lo lắng về khả năng tăng trưởng, ngân hàng này tiếp tục tung ra những gói kích thích khiêm tốn.
 
9. Đồng USD giữ vững sức mạnh hiện tại trong năm 2019
 
Nền kinh tế Mỹ tiếp tục tăng trưởng và việc Fed tăng lãi suất nhiều hơn là những căn cứ chính cho dự đoán này. Với sự ổn định gần đây của thị trường ngoại hối, đặc biệt là đồng tiền từ các thị trường mới nổi, thì việc đồng USD tăng giá dường như là điều không thể.
 
Tuy nhiên, biến động hoàn toàn có thể xảy ra. Bất ổn chính trị ở Châu Âu có thể gây ảnh hưởng xấu đến đồng euro và đồng bảng Anh. Dự kiến, tỷ giá đồng euro/ đồng USD trong cuối năm 2019 là khoảng 1,1 USD so với mức 1,14 USD vào cuối năm 2018. Đồng thời, tỷ giá đồng nhân dân tệ/ USD giữ ở mức ổn định, dưới 7,0. Đây cũng là con số mà chính phủ Trung Quốc mong muốn nhằm ổn định tài chính.
 
10. Rủi ro từ các cú sốc chính sách tăng lên, nhưng không đủ gây ra suy thoái kinh tế vào năm 2019
 
Những sai lầm trong việc hoạch định chính sách vẫn là mối đe dọa lớn đối với tăng trưởng toàn cầu trong năm 2019 và các năm sau đó, bao gồm: xung đột thương mại có thể leo thang và vượt khỏi tầm kiểm soát; thâm hụt ngân sách ở Mỹ; mức nợ cao ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cùng những sai lầm của các ngân hàng trung ương lớn đều sẽ gây ra những mối đe dọa cho nền kinh tế toàn cầu.
 
Tin tốt là khả năng ảnh hưởng của các sai lầm này đến tăng trưởng toàn cầu năm 2019 vẫn còn tương đối thấp. Tuy nhiên, IHS Market dự đoán rằng hậu quả từ các sai lầm chính sách sẽ tăng lên trong năm 2020 và các năm sau, khiến tăng trưởng chậm lại.
 
(Nguồn: Cafef)

Bà thương lái Việt dám sang Trung Quốc mua cả 1 nông trường cam

Từng bán 400 tấn cam một ngày ở chợ Long Biên, từng mua cả một nông trường cam của Trung Quốc những năm 2000,… Là giám đốc 1 DN lớn nhưng bà Nguyễn Thị Thành Thực vẫn luôn tự nhận mình “là một thương lái”.
 
Nông sản Việt bị “bình dân hóa”
 
Có phát ngôn thẳng thắn: “Nông sản Việt như cô gái quê danh giá chỉ biết ngồi nhà chờ người ta đến hỏi và mua đi”, “75% nông sản của chúng ta xuất sang Trung Quốc. Thương lái Trung Quốc vào đến tận vùng sâu, vùng xa, đến bất cứ ngõ hẻm nào của Việt Nam và họ giỏi hơn chúng ta là biết Việt Nam có gì ngon nhất, thời điểm nào thu hoạch, để thu mua”…, bà Nguyễn Thị Thành Thực, Chủ tịch Công ty Bagico Bắc Giang, gây được sự chú ý của dư luận cũng như nhiều chuyên gia, doanh nghiệp.
 
Nhận thấy nông sản Việt Nam có nhiều ưu điểm được thế giới công nhận, tuy nhiên, chúng ta vẫn phải chịu lép vế ở nhiều thị trường, bà Thực cho rằng nguyên nhân bởi cách làm ăn rời rạc, mạnh ai nấy làm, chưa biết cách chủ động đưa sản phẩm tiếp cận với thị trường.
 
 
Chủ tịch Cty CP Bagico, bà Nguyễn Thị Thành Thực
 
“Bản chất sự ví von đó là tôi mong muốn nông sản Việt phải tự tin hội nhập, đi tìm kiếm thị trường và biết mình có gì khác biệt, có gì cần thay đổi, để có nhiều sự lựa chọn hơn”, bà Thực nói.
 
“Tôi xin chia sẻ hàm ý trong câu nói đó thế này: Vì những người sản xuất nông nghiệp của chúng ta chủ yếu là nông hộ, sự liên kết rất hình thức và rời rạc, mạnh ai nấy làm. Còn các đại gia thì họ chọn phần nào ít rủi ro nhất trong chuỗi họ chiếm lĩnh, vì thế nhiều khi ra thị trường mình càng ngày càng tụt hậu, thấy rất tủi nhục. Nông sản Việt đang dần bị xếp xuống hạng bình dân ở ngay thị trường Trung Quốc, nơi mà nhiều năm trước luôn được coi là đặc sản”, bà Thực cho hay.
 
Dưới góc nhìn của một thương lái có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, bà Thực thẳng thắn thừa nhận tầm ảnh hưởng của Trung Quốc đối với ngành nông sản Việt Nam. Ngoài việc thương lái của họ sẵn sàng lùng sục đến tận vùng sâu vùng xa để thu mua, thì khoảng cách về công nghệ cũng là yếu tố quan trọng khiến nông sản Việt chưa thể vươn mình thoát khỏi cái bóng của Trung Quốc.
 
Nữ doanh nhân nói lên thực trạng: “Các nông sản chúng ta có hầu như Trung Quốc đều có hoặc họ lai tạo rất nhanh để phù hợp và tốt hơn. Bản thân thị trường nội địa họ rất lớn chưa kể đến xuất khẩu và chế biến cũng rất lớn so với chúng ta. Vì thế họ đầu tư sản xuất sẽ lợi hơn chúng ta vì giá thành rẻ, tự động cao”.
 
Đặc biệt chiến lược thương hiệu quốc gia của họ rất đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực. Chúng ta đừng lầm tưởng Trung Quốc là thị trường dễ tính. Thu nhập của họ ngày càng cao, kiểm soát thị trường ngày càng chặt chẽ và hiện đại. Họ kiểm soát truyền thông khá tốt nên không dễ gì mà các sản phẩm kém chất lượng có thể bán được. Rất nhiều nông sản Việt họ mua về làm thức ăn gia súc hay làm phân bón.
 
“Tôi đã từng nói, Trung Quốc vừa là đối tác nhưng cũng là đối thủ lớn nhất của nông sản Việt Nam. Vì sao là đối tác lớn nhất thì trong thời gian qua ai cũng đã rõ. Nhưng vì sao họ là đối thủ lớn nhất thì chúng ta rất thiếu thông tin”, bà Thực nhìn nhận.
 
Chúng ta cần hiểu họ nhiều hơn để biết họ cần gì, họ muốn gì và chúng ta có cạnh tranh được với những sản phẩm cùng loại của họ không?
 
Đặc biệt cần học và hợp tác chế biến nông sản. Họ đã sản xuất lớn, có thị trường, nhưng nguyên liệu thô nhập từ Việt Nam về sẽ đội giá rất cao vì chi phí trung gian ngày càng tăng. Việc bán các nông sản thô của chúng ta sẽ ngày càng gặp khó khăn và họ sẽ tìm cách phát triển sản xuất trong nước để tăng nguồn cung.
 
Mỗi hộ nông dân/HTX/DN siêu nhỏ không thể tự đầu tư được khu sơ chế và kho bảo quản tiêu chuẩn để dự trữ hàng tránh dội chợ. Vì thế các địa phương khi qui hoạch sử dụng đất và qui hoạch vùng sản xuất, cần có chính sách cụ thể để mời gọi đầu tư các “Khu dịch vụ sơ chế bảo quản sau thu hoạch” tại các vùng sản xuất, để người dân có thể đến thuê đóng gói/bảo quản chứ không phải bán ngay khi mất giá.
 
Khi chúng ta nâng cao trình độ sản xuất, có thể cạnh tranh xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng thì chúng ta mới đủ tự tin hội nhập một cách bền vững.
 
Giải pháp đầu tiên là sản xuất và tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị. Nửa trước của chuỗi là phần cung ứng các vật tư, công nghệ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp. Thực tế hiện nay, một sản phẩm nông sản bị bao vây bởi hàng chục trung gian quanh nó, mọi gánh nặng, rủi ro hầu như bằng cách này hay cách khác cũng đưa đẩy đến nhà sản xuất (chủ yếu là nông dân/DN nhỏ, siêu nhỏ).
 
Chuỗi giá trị nông sản toàn cầu cần kết nối thông qua các “Trung tâm một cửa nông sản Quốc gia” của các nước để cắt giảm chi phí và người tiêu dùng được mua hàng với đúng giá trị thực của nó.
 
Hiện nay, thường các nước nghèo lạc hậu người sản xuất bị bán sản phẩm rẻ hơn giá trị và người tiêu dùng thường bị mua hàng cao hơn giá trị thực. Nguyên nhân chính là sự lạc hậu trong việc quản lý hệ thống và chuỗi phân phối thu mua cũng như việc tranh thủ tư lợi của nhóm quyền lực.
 
Bà Thực nhìn nhận: “Tôi đã từng nói, Trung Quốc vừa là đối tác nhưng cũng là đối thủ lớn nhất của nông sản Việt Nam”
 
Thời đại công nghệ số, chúng ta muốn nâng cao giá trị nông sản, giảm thiểu rủi ro và nâng cao thu nhập người nông dân, đưa sản phẩm giá trị thực đến người tiêu dùng cần tìm phương pháp để cắt giảm các khâu trung gian, giảm thiểu chi phí, giảm thiểu hư hao, mất ATVSTP.
 
Vậy thì phải làm gì? Câu trả lời ở đây là phải có “Khu kinh tế Nông nghiệp/Trung tâm một cửa nông sản Quốc gia” và rất cần sự đột phá. Nếu Chính phủ quyết tâm thì hoàn toàn không khó. Chúng ta đã có hàng chục khu công nghiệp, khu kinh tế ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, việc đầu tư cho nông nghiệp một khu kinh tế tập trung là rất cần cho định hướng phát triển nông nghiệp.
 
Mô hình này chưa quốc gia nào có, chúng ta hoàn toàn có thể tạo đột phá đầu tiên trên thế giới, có thể là hình mẫu cho các nước nghèo và đang phát triển kết nối, công bằng thương mại với các nước giàu.
 
Với đất nước trên 60% dân số sống bằng nghề nông (chưa kể bộ máy quản lý), rất cần sự đầu tư đúng mức để an dân. Cắt giảm chi phí trung gian là tối cần thiết và nhanh nhất để nâng cao giá trị nông sản và minh bạch thông tin. Để DN nông nghiệp/nông dân và cả người tiêu dùng Việt Nam giảm thiểu tình trạng bị “mua đắt – bán rẻ”.
 
(Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam)

35,46 tỷ USD vốn FDI vào Việt Nam năm 2018

Vốn FDI đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần vào Việt Nam năm 2018 đạt 35,46 tỷ USD, bằng 98,8% so với cùng kỳ năm 2017.

Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính chung trong năm 2018, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 35,46 tỷ USD, bằng 98,8% so với cùng kỳ năm 2017. Ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân 19,1 tỷ USD, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2017.

Ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 19,1 tỷ USD năm 2018.
 
Cụ thể, tính đến ngày 20/12/2018, cả nước có 3.046 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký cấp mới gần 18 tỷ USD, bằng 84,5% so với cùng kỳ năm 2017; có 1.169 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm 7,59 tỷ USD, bằng 90,3% so với cùng kỳ năm 2017.
 
Cũng trong năm 2018, cả nước có 6.496 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN với tổng giá trị vốn góp 9,89 tỷ USD, tăng 59,8% so với cùng kỳ 2017.
 
Theo lĩnh vực đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh vực, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm nhất của nhà ĐTNN với tổng số vốn đạt 16,58 tỷ USD, chiếm 46,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 6,6 tỷ USD, chiếm 18,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đứng thứ ba là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,67 tỷ USD, chiếm 10,3% tổng vốn đầu tư đăng ký.
 
Theo đối tác đầu tư, có 112 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Nhật Bản đứng vị trí thứ nhất với tổng vốn đầu tư 8,59 tỷ USD, chiếm 24,2% tổng vốn đầu tư. Hàn Quốc đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký 7,2 tỷ USD, chiếm 20,3% tổng vốn đầu tư. Singapore đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 5 tỷ USD, chiếm 14,2% tổng vốn đầu tư.

Theo địa bàn đầu tư, nhà ĐTNN đã đầu tư vào 59 tỉnh thành phố, trong đó Hà Nội thu hút nhiều vốn ĐTNN nhất với tổng số vốn đăng ký 7,5 tỷ USD, chiếm 21,2% tổng vốn đầu tư. Thành phố Hồ Chí Minh đứng thứ hai với tổng vốn đăng ký 5,9 tỷ USD, chiếm 16,7% tổng vốn đầu tư. Hải Phòng đứng thứ ba với tổng số vốn đăng ký 3,1 tỷ USD chiếm 8,7% tổng vốn đầu tư.

(Nguồn: VOV)