Quyết định sai lầm, Pepsi mất 40 phần trăm thị phần về tay Coca Cola tại Venezuela trong 1 ngày

Venezuela là một trong những thị trường hiếm hoi mà Pepsi dẫn đầu với 18 nhà máy đóng chai của đối tác địa phương – Cisneros. Thế nhưng chỉ trong một cuối tuần năm 1996, toàn bộ hệ thống phân phối khắp Venezuela đã bất ngờ “thay áo” của “kẻ thù kinh điển” với Pepsi.
 
Đối tác cũ có… đối tác mới
 
Cisneros là tập đoàn sở hữu hơn 18 nhà máy và là đối tác đóng chai quan trọng bậc nhất của Pepsi tại Venezuela. Từ khi Pepsi tiến vào thị trường Châu Mỹ này, hai tập đoàn đã hợp tác với nhau hơn 5 thập kỷ.
 
Vào năm 1996, Oswaldo Cisneros – chủ sở hữu tập đoàn đóng chai Cisneros bắt đầu tìm kiếm đối tác để bán lại một phần công ty do gặp nhiều vấn đề về sức khỏe.
 
Lúc đó, nơi đầu tiên mà Cisneros tìm đến chính là Pepsi. Tuy nhiên, Pepsi lại chẳng mấy mặn mà với đề xuất này và chỉ mong muốn mua lại 15% cổ phần, trong khi Cisneros muốn bán ít nhất 50% công ty để có thêm nhân lực hỗ trợ vận hành.
 
Gustavo Cisneros, em họ của Oswaldo Cisneros, còn kể lại rằng Pepsi không những không hứng thú với đề xuất trên mà còn ra giá rất thấp cho 15% cổ phần, anh em nhà Cisneros hoàn toàn bất ngờ trước thái độ của Pepsi với đối tác lâu năm của mình. Và Coca-Cola ngay lập tức xuất hiện để trở thành một "cứu tinh", đối thủ này chấp nhận rủi ro lớn để đầu tư vào Cisneros, thậm chí Chủ tịch tập đoàn Coca-Cola còn đích thân bay tới Venezuela để thương thảo trực tiếp với chủ nhà máy trên.

 
Kết quả là Cisneros nhanh chóng chấp nhận bán 50% cổ phần với giá 300 triệu USD cho Coca-Cola. "Kẻ thù không đội trời chung" của Pepsi còn cam kết đầu tư thêm 300 triệu USD trong vòng 5 năm tiếp theo, với hy vọng biến Cisneros thành tập đoàn nước giải khát lớn nhất khu vực.
 
Đòn trả thù kinh hoàng
 
Với số tiền đầu tư khổng lồ của Coca-Cola, Cisneros mạnh dạn đơn phương chấm dứt hợp đồng có giá trị tới năm 2003 với Pepsi. Không những thế, các công ty con trực thuộc tập đoàn Cisneros, bao gồm một chuỗi siêu thị và một đài truyền hình cũng "song kiếm hợp bích" nhanh chóng tẩy chay Pepsi trên toàn thị trường.
 
"Mọi chuyên gia trong ngành giải khát đều có một thắc mắc: Tại sao Pepsi lại để chuyện này xảy ra" – Theo Jesse Meyers, chủ sở hữu Beverage Digest.
 
"Trong hơn 35 năm cạnh tranh, chưa bao giờ tôi thấy trường hợp một nhà máy đóng chai Pepsi trở thành nhà máy Coca-Cola một cách chóng vánh như thế. Đặc biệt là khi Venezuela là một trong những thị trường thành công nhất trên thế giới của Pepsi. Việc Coca-Cola có thể thực hiện được cuộc "đảo chính" ngay giữa ban ngày là một chuyện không ai có thể ngờ trước."
 
Sau khi ký hợp đồng hợp tác mới với Coca-Cola vào thứ năm ngày 22/8/1996, chủ tịch tập đoàn Cisneros yêu cầu nhân viên tháo ngay logo Pepsi và thay bằng logo Coca-Cola ngay thứ 6, đến sáng thứ 7, những chuyến xe giao hàng màu xanh của Pepsi đã "thay áo" đỏ rực và chính thức đưa những thùng Coca-Cola khắp mạng phân phối cũ.
 
18 nhà máy đóng chai, 4.000 xe chở hàng và hàng chục ngàn điểm phân phối ngay lập tức "rực đỏ" chỉ trong một cuối tuần. Đến thứ hai tuần sau, người dân Venezuela gần như không thể tìm mua Pepsi ở bất kì quán ăn hay tiệm tạp hóa nào nữa.
 

 
Thị phần của Coca-Cola tăng vọt từ 10% lên tận 50%. Đối với đối thủ Pepsi, do không còn nhà máy đóng chai nào, gần 40% thị phần của công ty này gần như không cánh mà bay chỉ trong vài ngày ngắn ngủi.
 
Sự hối hận muộn màng
 
"Đồ phản bội!", Keith Hughes – phát ngôn viên của Pepsi trả lời báo chí ngay sau bản hợp đồng định mệnh được ký kết. Keith còn thông báo rằng Pepsi sẽ kiện cả Cisneros và Coca-Cola ra tòa vì hai "đối thủ" kia rõ ràng đã vi phạm các điều khoản hợp đồng.
 
Pepsi còn nhấn mạnh rằng liên minh Coca-Cola và Cisneros đang lạm dụng vị thế độc quyền để thao túng thị trường. Nhưng Coca-Cola cũng cao tay không kém, tập đoàn này chủ động đề xuất bán lại 6 trong tổng số 18 nhà máy đóng chai cho Pepsi, nhưng với một mức giá… trên trời.

Pepsi hoàn toàn không đủ tài chính cũng như chả còn mặt mũi nào để chấp nhận đề xuất trên. Ngay lập tức, Coca-Cola sử dụng hành động trên làm minh chứng cho sự "kém chủ động" của Pepsi để tạo dựng cạnh tranh trên thị trường và bác bỏ hoàn toàn ý định độc chiếm mà đối thủ đang cáo buộc.
 
Mãi đến cuối năm đó, Coca-Cola và Cisneros mới được tòa án xử phạt 1,9 triệu USD, nhưng hai tập đoàn này vẫn được giữ nguyên các hợp đồng và hoạt động hiện có, một con số quá nhỏ so với doanh thu mà cặp đôi này thu lại được trong khoảng thời gian đó.
 
Mãi sau này Pepsi mới ký được hợp đồng trị giá 380 triệu đô la với Empresas Polar S.A, một công ty khác trong khu vực để sản xuất và phân phối Pepsi, nhưng họ đã chẳng thể nào lấy lại vị thế trước kia của mình.
 
Và như thế, thứ Năm, ngày 22/8/1996 được đánh giá là ngày đau đớn nhất cho những người điều hành Pepsi trên khắp thế giới.
(Nguồn: Tri thức trẻ)

Bài học qua cuộc đại chiến của Doanh nghiệp Việt với Grab và Go-Việt

Trong khi những ông lớn taxi Việt Nam vẫn còn đang loay hoay kiếm đường tồn tại trên chính sân nhà, thì Grab đã nhanh chóng đi bước tiếp theo – hợp tác chiến lược với Microsoft. Nhìn sự năng động và khả năng thực thi tuyệt vời của Grab và Go-Việt, chúng ta mới thấy mình còn phải học hỏi nhiều điều nếu muốn tồn tại trong kỷ nguyên 4.0 này.

 
Bài học đầu tiên: Tốc độ
 
Ngày 8/10 vừa qua, Microsoft đã thông báo họ sẽ đầu tư vào Grab với cương vị đối tác phát triển công nghệ. Vậy là từ đầu năm nay, Grab đã nhận được 2 thương vụ đầu tư chiến lược từ Softbank và Microsoft.
 
Hai thương vụ đầu tư này không chỉ đơn thuần là vấn đề tài chính. Đối với Softbank là chiến lược đưa những Startup trong vườn ươm của Softbank vào thị trường Đông Nam Á, thông qua nền tảng Grab ở đây. Đối với Microsoft là chiến lược phát triển những công nghệ “offline to online”, AI, và đặc biệt quan trọng là dịch vụ thanh toán trực tuyến.

Grab đang phát triển hệ sinh thái rất nhanh, ban đầu từ gọi xe trực tuyến, đến ship hàng, giờ là vườm ươm startup, công nghệ 4.0 và thanh toán trực tuyến. Thật khó có thể tin được là Grab mới chỉ thành lập từ năm 2012.
 
Nhìn lại các ông lớn ngành taxi Việt Nam – Bắc Mai Linh và Nam Vinasun, chúng ta chưa bao giờ có thể bắt kịp được tốc độ của Grab và gần đây nhất là Go-Việt.
 
Gia nhập Việt Nam từ tháng 2/2014, Grab chỉ mất 2 năm để “giáo dục” khách hàng và cùng với Uber thống lĩnh thị trường taxi và xe ôm Việt Nam. Hai ông lớn taxi Việt Nam nhận ra vấn đề quá trễ, khi doanh thu trong quý I 2017 giảm hơn 1 nửa so với cùng kỳ năm 2016. Và thậm chí thay vì nhanh chóng thay đổi để cạnh tranh, họ lại mất một khoảng thời gian chỉ để làm những điều vô bổ như treo khẩu ngữ phản đối.
 
Mãi đến gần cuối năm 2017, Mai Linh mới chính thức ra app gọi xe đầu tiên của mình. Còn Vinasun dù đã có app cuối năm 2015, nhưng cũng phải đến giữa năm 2017 mới thật sự có thể vận hành được mô hình mới. Sự chậm chạp này đã buộc 2 hãng cắt giảm hơn 15,000 nhân viên, và phải chấp nhận thu quân về tỉnh lẻ vớt vát từng mẩu thị phần cuối cùng.
 
Những tưởng với chiến lược co cụm phòng thủ, 2 cựu vương taxi truyền thống có thể an toàn được 1 khoảng thời gian. Thì tháng 4/2018, Uber và Grab lại tiến một bước rất dài khi họ bắt tay để phân chia lại thị trường. Grab trở thành nhà độc quyền trên thị trường gọi xe Việt, sẵn sàng đánh chiếm mọi ngóc ngách trên lãnh thổ Việt Nam.
 
Lòng dân lúc này háo hức trông đợi 1 thương hiệu Việt phá vỡ thế độc tôn của Grab. Hơn bao giờ hết, họ kỳ vọng vào 1 đại gia Mai Linh, 1 ông lớn Phương Trang với những tuyên bố mạnh mẽ. Nhưng kết quả thì vẫn vậy, chỉ đúng 4 tháng sau, Go-Việt của Indo nhanh chóng nhảy vào chiếm 35% thị phần thành phố Hồ Chí Minh. Các thương hiệu Việt vẫn không thấy đâu cả.
 
 

 
Thị trường giờ đây lại trở thành song mã giữa Go-Việt và Grab, các hãng Việt hoàn toàn thất thủ.
 
Biết trách ai đây khi chúng ta đã quá chậm chạp, họ thì đi quá nhanh. Ngành taxi nước ta đã được chứng kiến được tốc độ chóng mặt của Thế Giới trong làn sóng 4.0. Sắp tới, làn sóng sẽ tiếp tục đánh vào nước ta. Đó là các ngành: thanh toán trực tuyến cũng của Grab, dịch vụ lưu trú của AirBnb, dịch vụ du lịch của Traveloka, v.v…
 
Liệu trong những đợt sóng kế tiếp có doanh nghiệp nào của Việt Nam đủ nhanh để tồn tại, hay cũng sẽ bị cuốn phăng giống như ngành taxi truyền thống?
 
Bài học thứ hai: Thương hiệu
 
Có một nghịch lý đáng buồn trong cuộc chiến: chữ “Việt” lại được 1 thương hiệu Indonesia sử dụng hiệu quả hơn cả thảy mọi thương hiệu Việt Nam khác.
 
Nhảy vào Việt Nam khi Grab đang độc quyền trên thị trường, Go-Jek sử dụng 1 chiến lược cực kỳ thông minh. Họ xây dựng thương hiệu của mình như 1 thương hiệu Việt, mang sứ mệnh thách thức thế độc quyền của Grab, lấy lại lợi ích cho người tiêu dùng Việt.
 
Go-Jek đổi tên thành Go-Việt. Áo xanh lá và nón xanh mạ đổi thành áo đỏ và nón đỏ. Họ cung cấp chế độ tốt cho tài xế, các chương trình khuyến mãi 5 ngàn cho khách hàng. Họ khiến Grab từ 1 gã độc tôn khó chịu phải quan tâm hơn tới khách hàng và tài xế.

Go-Việt thu hút được cảm tình của người dân Việt Nam, được cả cánh tài xế lẫn người tiêu dùng ủng hộ. Thậm chí nhiều người còn tưởng Go-Việt là 1 thương hiệu thuần Việt. Trong 1 tháng, họ đã làm được điều mà những Mai Linh, Vinasun, Fastgo, VATO – những doanh nhiệp thuần Việt thật sự – không làm được trong nhiều năm qua.
 
Cuộc chiến này, một lần nữa cho chúng ta thấy khả năng xây dựng thương hiệu của ta kém thế nào.
 
Bia Sài Gòn mãi cho đến khi trở thành công ty của người Thái mới có thể xuất hiện trên các sân cỏ của Ngoại Hạng Anh. Phở Việt và nước mắm Phú Quốc có mặt trong các siêu thị toàn Thế Giới với cái mác “Made in Thailand”. Gạo Việt Nam xuất khẩu với sản lượng lớn nhì Thế Giới, nhưng giá trị còn không bằng 1/2 gạo Hoa Nhài Campuchia, 1/5 gạo Horm Malis Thái Lan.
 
Thương hiệu bia Sài Gòn trên kệ siêu thị nước ngoài với từ "made in Thailand"
 
Không phải các thương hiệu Việt không ý thức được sức mạnh của việc xây dựng thương hiệu, chỉ là họ không có một chiến lược nào đủ hiệu quả. Để xây dựng thương hiệu, hô hào chỉ là 1 phần, hành động thực tế mới là điều tối quan trọng. Hãy xem Go-Việt đã làm được gì, và hãy xem các ứng dụng gọi xe Việt khác đã làm được gì.
 
Cùng bỏ ra 1 công sức, thương hiệu thật sự có thể nâng tầm giá trị của sản phẩm. Không xây dựng được thương hiệu, đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ mãi phải chịu cảnh đứng dưới cùng của chuỗi giá trị toàn Cầu.
 
Bài học thứ ba: Khả năng huy động vốn và tầm nghĩ
 
Khả năng gọi vốn cũng là 1 vấn đề khác của những doanh nghiệp Việt. Trong cái thời đại mà triết lý kinh doanh dường như là “Ai càng dày vốn để đốt thì càng có cơ hội thành công”, những doanh nghiệp Việt Nam lại gặp khó khăn trong việc thu hút đầu tư.
 
Vấn đề trong tốc độ thực thi và xây dựng thương hiệu như ở trên là 2 lý do trực tiếp của việc khó gọi vốn. Ngoài ra, nếu nhìn vào sâu hơn thì ta có thể thấy thêm 3 lý do nữa là tổ chức quản trị không bài bản, tầm nghĩ và khả năng hợp tác kém.
 
Trong đó tầm nghĩ được thể hiện rất rõ trong cuộc chiến ứng dụng gọi xe này. Trước sự bành trướng ngông nghênh của Grab, những ông lớn taxi Việt Nam từng tung hoành 1 thời chỉ biết co cụm phòng thủ, nghĩ cách nào để tồn tại qua ngày. Grab càng lấn tới thì Mai Linh và Vinasun càng lùi. Mãi không thấy dám đối đầu trực tiếp.
 
Chính vì cái gan lớn nên Hàn Quốc có những Huyndai, Samsung, Nhật Bản có những Honda, Sony. Việt Nam không phải không có những cái tên dám làm lớn, nhưng hầu hết đều đến từ bộ phận nhà nước như Viettel và Vinamilk. Rất cần những doanh nghiệp tư nhân dám nghĩ lớn và làm lớn, càng nhiều thì đất nước càng phát triển nhanh.

Huy động vốn và tầm nhìn đang là vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam nên nhìn nhận nghiêm túc.
 
Đáng mừng thay, trong cuộc chiến này cuối cùng cũng có những thương hiệu Việt dám đứng dậy. Đó là Fastgo ở miền Nam và Trung tập hợp hơn 35 hãng taxi truyền thống để đối đầu với Grab, cũng như chuẩn bị tiến công qua Myanmar và Indonesia, cạnh tranh sòng phẳng. Đó là G7 ở Hà Nội với tham vọng kết nối hơn 50 hãng taxi truyền thống cùng nhau cạnh tranh với taxi công nghệ.
 
Chưa biết thành công hay thất bại, nhưng động thái dám tấn công sòng phẳng như vậy là đã đáng mừng rồi. Đó là cái tinh thần chúng ta đang tìm kiếm trong thời đại 4.0.
 
Thời đại 4.0 này được ví như cuộc chiến “Kẻ chiến thắng sẽ có được tất cả”.  Trái ngược hoàn toàn với chỉ chục năm trước, thời mà chỉ những đại gia mới dám xây dựng thương hiệu, mới dám nghĩ lớn, và tấn công thần tốc. Ngày nay, 1 doanh nghiệp phải bắt buộc làm được 3 việc đó nếu muốn tiếp tục tồn tại.

(Nguồn: Diễn đàn doanh nghiệp)

 

Bí mật của “Black Friday” dưới góc nhìn kinh tế học


Doanh số bán hàng Black Friday cũng là một cách để kiểm tra sức khỏe của ngành bán lẻ, vì nhiều nhà kinh tế học tin rằng chi tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Họ ngụ ý nếu chi tiêu cho Black Friday thấp thì sức khỏe của nền kinh tế cũng kém.

Black Friday là ngày sau ngày Lễ tạ ơn của Mỹ (thứ năm thứ tư của tháng 11), được coi là khởi đầu của mùa mua sắm Giáng sinh ở nước ngoài. Ngày nay, Black Friday đã phổ biến trên toàn thế giới như một ngày hội giảm giá của những tín đồ mua sắm.

Tại Mỹ, từ năm 1932, Black Friday đã được coi là khởi đầu của mùa mua sắm Giáng sinh. Black Friday được cho là sẽ kích cầu tiêu dùng trong kỳ nghỉ lễ.

Trong năm 2014, 133,7 triệu người Mỹ đã mua sắm vào dịp này. Mỗi người trung bình chi tiêu 380,95 USD, tổng cộng là khoảng 51 tỷ USD đã được đổ vào nền kinh tế.
 

 
Sự gia tăng rõ rệt về lượng tìm kiếm các từ khóa trong Black Friday
Google Trends 2016 cho thấy sự gia tăng rõ rệt về lượng tìm kiếm các từ khóa như "giao dịch (deal)", "chiết khấu (discount)" và "giảm giá (sale)" trong Black Friday. Cụm "giao dịch" và "chiết khấu" được tìm kiếm nhiều hơn bất kỳ dịp giảm giá nào khác. Hitwise cũng cho thấy lượng truy cập trên các website như Amazon, eBay và Argos cũng cao nhất vào thời điểm này so với các thời gian còn lại trong năm.

Mặc dù các cửa hiệu trưng các tấm biển "sale thanh lý", "sale lỗ vốn", "sale sập sàn", nhưng có một thực tế không thể phủ nhận: các cửa hàng sẽ không mở cửa trong Black Friday nếu họ không thu về lợi nhuận khổng lồ. Từ góc độ kinh tế học, sự kiện này đem lại lợi nhuận cho hầu như tất cả các cửa hàng.

Theo lý thuyết kinh tế học vi mô, giảm giá tại cửa hàng trong ngày Black Friday, cũng như phiếu giảm giá và các hình thức tương tự khác, là một dạng phân biệt giá theo thời điểm, có thể cho phép doanh nghiệp kiếm được nhiều lợi nhuận hơn.

Dựa trên ý tưởng là những cá nhân khác nhau sẵn sàng trả số tiền khác nhau cho cùng một sản phẩm. Ban đầu, các cửa hàng đặt giá sản phẩm rất cao và bán cho những khách hàng có nhu cầu cao với sản phẩm và không muốn phải chờ đợi, chiếm thặng dư tiêu dùng từ nhóm khách này.

Sau đó, khi nhóm khách hàng cao cấp này đã mua đủ sản phẩm cho mình, các cửa hàng sẽ giảm giá để thu hút nốt nhóm khách hàng đại trà còn lại. Chính sách phân biệt giá qua đó sẽ giúp tăng lợi nhuận của nhà sản xuất.

Nếu như Black Friday đem lại lợi ích cho nhà sản xuất, vậy tại sao họ không tổ chức "ngày hội mua sắm" này thường xuyên hơn?

Trên thực tế, ngoài Black Friday, hàng năm các thương hiệu từ lớn đến nhỏ cũng đều có nhiều dịp giảm giá khuyến mại khác nhau. Tuy nhiên, những dịp giảm giá giả sử có tăng thêm thì lợi ích cận biên mà nhà sản xuất đạt được từ chúng cũng sẽ giảm xuống.
 

Black Friday đã phổ biến trên toàn thế giới như một ngày hội giảm giá của những tín đồ mua sắm
Vì ngân sách của người tiêu dùng là có giới hạn, cho dù các nhà sản xuất có giảm giá nhiều đợt trong năm hơn thì họ cũng không thể tăng tiêu dùng lên quá cao. Hơn nữa, người tiêu dùng chọn mua hàng trong ngày Black Friday với tâm lý rằng: "Nếu không mua ngay thì có thể sau đó nó sẽ không giảm giá nữa". Do vậy, khi người tiêu dùng quá quen thuộc với việc giảm giá thì tâm lý này cũng sẽ không còn.

Bên cạnh đó, ngày nay Black Friday còn bị biến tướng thành ngày xả các sản phẩm lỗi mốt, sản phẩm bị lỗi hoặc khó bán, đồ lẻ size. Điều này đã khiến sức ảnh hưởng của nó đối với cầu tiêu dùng ngày càng giảm đi.

Black Friday cũng gây ra một số ảnh hưởng tiêu cực về phía người tiêu dùng. Nó gây ra tiêu dùng quá mức, tác hại này đôi khi vượt quá cả lợi ích đến từ việc mua đồ giá rẻ. Người tiêu dùng thông thái sẽ có chiến lược cũng như cân nhắc thiệt hơn khi mua sắm. Nhưng thường không phải ai cũng tỉnh táo được trước đồ giá rẻ và những lời chào mời quá đỗi hấp dẫn của các thương hiệu.

(Nguồn: Trí thức trẻ)

 

Blockchain là gì ?


Trong làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0, Blockchain được xem là một công nghệ "chìa khóa" cho chuyển đổi số và xây dựng nền tảng công nghệ thông tin tương lai.

 

Với khả năng chia sẻ thông tin dữ liệu minh bạch theo thời gian thực, tiết kiệm không gian lưu trữ và bảo mật cao, công nghệ blockchain (chuỗi khối) là một trong những xu hướng công nghệ đột phá, có khả năng ứng dụng rộng rãi ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực. 

Blockchain là công nghệ mới được nhắc nhiều trong thời gian gần đây. Nếu được bình chọn cho công nghệ mới nổi bật nhất trong năm 2017, thì chắc chắn blockchain và ứng dụng vào tiền ảo, tiêu biểu như Bitcoin sẽ được xướng tên.

Vậy blockchain là gì? và có thể ứng dụng như thế nào cho từng lĩnh vực từ khối chính phủ, tổ chức ngân hàng – tài chính – tín dụng tới các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, bán lẻ…?
Theo các chuyên gia, blockchain là công nghệ lưu trữ và truyền tải thông tin bằng các khối được liên kết với nhau và mở rộng theo thời gian. Mỗi khối chứa đựng các thông tin về thời gian khởi tạo và được liên kết với các khối trước đó. 

Blockchain được thiết kế để chống lại sự thay đổi dữ liệu. Thông tin trong blockchain không thể bị thay đổi và chỉ được bổ sung thêm khi có sự đồng thuận của tất cả các nút trong hệ thống. Ngay cả khi nếu một phần của hệ thống blockchain đổ, những máy tính và nút khác sẽ tiếp tục hoạt động để bảo vệ thông tin. 

Đặc biệt blockchain có khả năng truyền tải dữ liệu mà không đòi hỏi trung gian để xác nhận thông tin. Hệ thống blockchain bao gồm nhiều nút độc lập có khả năng xác thực thông tin.
Với những đặc thù này, các chuyên gia cho rằng, công nghệ này mở ra một xu hướng ứng dụng tiềm năng cho nhiều lĩnh vực như tài chính ngân hàng, bán lẻ, vận chuyển hàng hóa, sản xuất, viễn thông. Tuy nhiên, xu hướng áp dụng lớn nhất hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam sẽ là mảng tài chính, ngân hàng, kiểm toán nội bộ.

Trong lĩnh vực vận chuyển hàng hóa, với công nghệ này, một người nhập có thể chia sẻ thông tin cho nhiều đơn vị trong cùng một mạng lưới được xây dựng. Ví dụ khi hàng hóa được chuyển từ hải quan Mỹ đến hải quan Việt Nam, khi hàng hóa chuyển đến đâu thì tất cả những thành viên tham gia mạng blockchain đều có thể theo dõi tình trạng hàng hóa và biết cụ thể thời gian đến. 

Trong lĩnh vực bán lẻ hay nông nghiệp, blockchain sẽ phục vụ hiệu quả cho việc truy xuất nguồn gốc để biết rõ các sản phẩm, hàng hóa được nhập khẩu, sản xuất từ đâu. 
Ví dụ, một chiếc xe ôtô từ nhà máy tới hệ thống đại lý khi bán tới tay khách hàng có thể sẽ phát sinh thêm nhiều giao dịch, trao đổi mua bán tiếp sau đó. Nếu ứng dụng công nghệ chuỗi khối hoàn toàn có thể truy xuất được nguồn gốc xe, lịch sử các giao dịch mua bán cụ thể, cũng như thông tin bảo hành, sửa chữa…

Hiện nay, các doanh nghiệp lớn trên thế giới như Microsoft và sắp tới Oracle sẽ giới thiệu, tham gia chạy đua đưa các công nghệ chuỗi khối này. Giải pháp công nghệ đột phá này có thể áp dụng tối ưu cho các ngành nghề như tài chính, giao thông và nhiều lĩnh vực khác.

Ông Vũ Ngọc Hoàng, Trung tâm phần mềm và giải pháp IBM Việt Nam, cho biết, Blockchain có thể ứng dụng rất nhiều lĩnh vực trong đời sống. Một trong những ứng dụng điển hình của Blockchain là Bitcoin. Mặc dù có nhiều người đang hiểu lầm khi coi Blockchain là Bitcoin nhưng thực tế, Bitcoin chỉ là một ứng dụng đầu tiên chạy trên hệ thống Blockchain.

Với các lĩnh vực cụ thể, ông Hoàng nói thêm, trong mạng lưới kinh doanh của các doanh nghiệp có rất nhiều nhà cung cấp cùng tham gia. Khi tham gia blockchain, hệ thống chuỗi sẽ lưu trữ thông tin của cả chuỗi khối trước, xác định rõ đóng góp của các bên tham gia.  

Trong lĩnh vực tài chính, với blockchain, các bên tham gia chỉ cần xây dựng một mạng sổ cái chia sẻ tất cả thông tin giao dịch, khi một thành viên cập nhật thông tin thì tất cả các thành viên còn lại được phép xem, đọc…

Công nghệ blockchain được áp dụng từ năm 2015. Các nhà công nghệ dự đoán trong 3-5 năm tới, công nghệ này sẽ được áp dụng nhiều hơn nữa. 

(Nguồn sưu tầm)

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào kinh doanh


Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI) ngày càng phổ biến và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Khai thác AI hợp lí sẽ là đòn bẫy để hỗ trợ doanh nghiệp đạt được những thành tự và phát triển vượt bậc trong tương lai.

1. Kinh doanh thông minh

Ngày nay, do sự cạnh tranh khốc liệt trong môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp có xu hướng đi tiên phong trong bất cứ quyết định kinh doanh nào. Nhờ sự tinh tế của các công cụ phân tích hiện nay, các quyết định kinh doanh được đưa ra chính xác hơn, có thể tránh được những rủi ro do suy đoán sai lầm hoặc dựa vào trực giác.
 

 
Ảnh: Trí tuệ nhân tạo sẽ không cướp đi việc làm, mà thay vào đó, nó giúp cho mọi người làm việc hiệu quả hơn
Để đưa ra các quyết định kinh doanh hiệu quả, việc theo dõi, thu thập thông tin kinh doanh và quản lý dữ liệu trở thành công việc quan trọng cho các doanh nghiệp. Trong khi các phương pháp và công cụ kinh doanh truyền thống đang gặp khó khăn để đối phó với khối lượng dữ liệu lớn và đa dạng, thì đó là cơ hội để AI được áp dụng thực tiễn. Các thuật toán cao cấp hiện nay được sử dụng để quản lý một lượng lớn dữ liệu và có thể lập các báo cáo khi doanh nghiệp cần bất cứ lúc nào.

2. Trả lời tự động

Một phát triển thú vị khác trong AI là tạo hệ thống trả lời tự động (chatbot). Sự phát triển trong xử lý ngôn ngữ tự nhiên đã cho phép các hệ thống có thể xử lý và trả lời tự động nhiều cuộc đàm thoại trong kinh doanh. Việc sử dụng rộng rãi các trợ lý ảo như Siri của Apple hoặc Cortana của Microsoft cho các công việc thường xuyên là một minh chứng về những gì chatbot có thể làm.

Đối với doanh nghiệp, chatbot có thể cung cấp một mức độ tự động hóa và giải phóng nguồn lực được sử dụng để điều khiển chức năng quản lý tài khoản và hỗ trợ thường xuyên.
 

 
Ảnh: Chatbot của FPT.AI hỗ trợ doanh nghiệp chăm sóc khách hàng
Nằm trong xu thế chung của cuộc cách mạng 4.0, FPT đã cho ra đời nền tảng trí tuệ nhân tạo toàn diện FPT.AI ứng dụng những công nghệ tiên tiến như học máy, xử lý ngôn ngữ tự nhiên, thị giác máy tính; cung cấp những giải pháp tối ưu hóa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với 4 sản phẩm: FPT.AI Conversation; FPT.AI Speech; FPT.AI Vision; FPT.AI Knowledge.

3. Nội địa hóa

Nội địa hóa hoặc cung cấp những trải nghiệm người dùng cho một thị trường cụ thể đã trở thành mối quan tâm chính cho thương mại điện tử hiện nay.

Trước đây, các doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử xuyên biên giới đã gặp không ít khó khăn về vấn đề ngôn ngữ. Hãy tưởng tượng, khi hàng hóa đi đến một địa phương, bạn phải dịch tất cả các mô tả sản phẩm của bạn theo ngôn ngữ bản địa. Nếu thực hiện trên hàng ngàn mặt hàng, bạn sẽ mất rất nhiều thời gian và chi phí, chưa kể độ chính xác của các bản dịch. Tuy nhiên, các AI xử lý ngôn ngữ tự nhiên hiện nay có thể tạo ra các bản dịch đơn giản, chính xác và nhanh chóng, giúp các doanh nghiệp thuận tiện hơn trong việc tiếp cận nhiều thị trường.

4. Cá nhân hóa

Bên cạnh nội địa hóa, một cách khác cho các doanh nghiệp để cung cấp một trải nghiệm khách hàng hấp dẫn hơn là thông qua cá nhân hóa. Sử dụng AI, cá nhân hóa giờ đây có thể đi xa hơn trong việc thiết lập trình duyệt web để thu thập sở thích người dùng.

Thương mại điện tử có thể cung cấp các khuyến nghị dựa trên lịch sử duyệt web và sở thích mua sắm của người dùng. Bạn dễ dàng tìm thấy điều này trong các đề xuất của Amazon. Các đề xuất được báo cáo chiếm 35% doanh thu của Amazon và được coi là một công nghệ kinh doanh chủ chốt của công ty.

Ngày nay, các doanh nghiệp có thể thực hiện các thuật toán riêng để quảng bá hình ảnh, tạo ra các hệ thống dữ liệu theo dõi khách hàng, cung cấp các đề xuất mua hàng cho người dùng để tăng doanh thu.

5. Tự động hóa

Các doanh nghiệp dựa vào sản xuất và hậu cần có thể cải thiện việc quản lý chuỗi cung ứng của họ thông qua AI bằng cách quản lý hiệu quả hàng tồn kho và tinh giản hoạt động.

AI có thể theo dõi cung và cầu trong các khu vực mà một doanh nghiệp phục vụ, để nó có thể tự điều chỉnh hàng tồn kho, di chuyển hàng tồn kho từ các thị trường nhu cầu thấp sang các thị trường có nhu cầu cao. AI cũng có thể định giá cho hàng hóa.

Ngay cả việc vận chuyển hàng hóa hiện tại đã được cải thiện bởi AI, nó cũng được sử dụng để vạch ra các tuyến đường di chuyển hàng hóa đạt hiệu quả tốt nhất.
 

(Nguồn: Techinsight)