The Customer Experience Management (CXM) course is the latest advanced academic offering from The FPT School of Business & Technology (FSB) in collaboration with Michigan State University (MSU). Upon completion of the program, participants will receive an international certificate from MSU.
Michigan State University is a world leader in Customer Experience Management education, known for its practical application of knowledge. According to US News, MSU ranks in the Top 40 in the United States and holds the 105th position among the top 1,000 universities worldwide (Times Higher Education).
On May 18, 2024, FSB and MSU officially launched the advanced international certificate program in Customer Experience Management, with a large number of participants from across the country. This marks the third official collaboration between the two schools since 2021.
With a faculty composed of leading international experts and entrepreneurs, the CXM course at FSB promises to deliver incredibly engaging and beneficial knowledge experiences for participants. Customer experience is a crucial factor for business success. Managing customer experience not only ensures customer satisfaction but also boosts revenue and helps maintain good relationships with potential clients.
The CXM – Customer Experience Management course at FSB is ready to help businesses embark on a new, energetic development journey.
Những thành viên này thậm chí mang về lợi nhuận lớn hơn toàn tập đoàn, hỗ trợ những mảng kinh doanh đang được phát triển nhưng chưa mang lại kết quả tài chính.
Đầu năm nay, tập đoàn Masan đã công bố kế hoạch niêm yết cổ phiếu của CTCP Hàng tiêu dùng Masan (Masan Consumer) trên sàn chứng khoán TP.HCM (HOSE). Theo đó, Masan Consumer sẽ niêm yết hơn 717,5 triệu cổ phiếu trên HOSE.
Thông tin này đã tác động tích cực tới giá cổ phiếu tập đoàn Masan và cả Masan Consumer. Ước tính từ đầu năm đến nay, giá cổ phiếu Masan đã tăng gần 10% còn cổ phiếu Masan Consumer đã tăng tới 80%.
Theo nhóm phân tích ngân hàng HSBC, thông tin việc chuyển sang niêm yết trên HOSE có thể giúp cổ phiếu Masan Consumer cải thiện tính thanh khoản, phù hợp năng lực vượt trội mà công ty đạt được trong nhiều năm qua.
HSBC đánh giá, Masan Consumer có lịch sử kinh doanh ổn định với mức tăng trưởng cao, vượt trội đáng kể so với các công ty cùng ngành FMCG và thực phẩm đóng gói trong khu vực.
Với các thương hiệu quen thuộc với 100 triệu người dân Việt Nam như Chinsu, Nam Ngư, Omachi, Kokomi, WakeUp 247…, Masan Consumer luôn là “con gà đẻ trứng vàng” của tập đoàn Masan. Kể cả trong những giai đoạn khó khăn của nền kinh tế, nhu cầu tiêu thụ các dòng sản phẩm thiết yếu này vẫn rất lớn.
Năm 2023, Masan Consumer đạt hơn 28.000 tỷ đồng doanh thu và gần 7.200 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế. Bất chấp khó khăn chung của nền kinh tế, doanh nghiệp tiêu dùng này vẫn ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận kỷ lục, hơn 30% so với năm 2022.
Trong khi đó cả tập đoàn Masan năm 2023 ghi nhận lợi nhuận sau thuế hơn 1.800 tỷ đồng. Có thể thấy, Masan Consumer thực sự là “cỗ máy in tiền”, là thành viên đóng góp lợi nhuận chính cho tập đoàn Masan trong bối cảnh các mảng kinh doanh khác như bán lẻ chưa mang về thành quả.
Có vai trò tương tự Masan Consumer, CTCP Vinhomes (Vinhomes) cũng hiện là trụ cột lợi nhuận tại tập đoàn Vingroup. 2 năm vừa qua, bất động sản là thị trường phải đối mặt với nhiều khó khăn nhất. Mặc dù vậy, Vinhomes vẫn cho thấy tiềm lực vượt trội khi công bố kết quả kinh doanh rất ấn tượng.
Năm 2023, Vinhomes ghi nhận lợi nhuận sau thuế đạt 33.300 tỷ đồng, tăng 14% so với năm trước đó và vượt kế hoạch đề ra.
Theo các công ty phân tích, Vinhomes luôn là nhà đầu tư bất động sản hàng đầu Việt Nam trong dài hạn với vị thế dẫn đầu thị trường, quỹ đất lớn và thành tích đã được chứng minh trong việc phát triển các dự án quy mô lớn
Kết quả kinh doanh của Vinhomes luôn bền vững khi từ nhiều năm nay, thành viên này luôn duy trì việc tạo ra lợi nhuận từ 1 – 2 tỷ USD mỗi năm cho Vingroup. Con số này cao hơn rất nhiều so với con số lợi nhuận toàn tập đoàn, nhất là trong vài năm trở lại đây, khi Vingroup liên tục đẩy mạnh nguồn lực phát triển xe điện và đang phải chấp nhận bù lỗ cho mảng này.
Tại tập đoàn Trường Hải (Thaco Group), mảng kinh doanh ô tô (Thaco Auto) là thành viên quan trọng nhất trong bức tranh tài chính của tập đoàn. Theo báo cáo của Jardine Cycle & Carriage (JC&C), cổ đông lớn đang nắm giữ 26,6% vốn của Thaco Group, mảng kinh doanh ô tô luôn là động lực chính của Tập đoàn. Năm 2023, mảng này đóng góp gần 70% lợi nhuận của Thaco Group.
Lợi nhuận từ mảng kinh doanh ô tô được Thaco Group sử dụng để bù lỗ cho mảng kinh doanh nông nghiệp. Thagrico, công ty con trong mảng nông nghiệp của Thaco từ sau khi tiếp quản CTCP Nông nghiệp Quốc tế Hoàng Anh Gia Lai (HAGL Agrico) thì luôn trong tình trạng lỗ lớn.
Đầu năm nay, tại cuộc họp đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2024 của HAGL Agrico, ông Trần Bá Dương, Chủ tịch Công ty và cũng là Chủ tịch Thaco Group cho biết, vốn HAGL Agrico có 11.000 tỷ đồng thì đã lỗ lũy kế tới 8.000 tỷ đồng. Mặc dù vậy “Thaco vẫn ủng hộ đầu tư, tôi đánh cược vào nông nghiệp nói chung và HAGL Agrico rất lớn”, ông Dương chia sẻ.
Quý I/2024, HAGL Agrico tiếp tục ghi nhận lỗ sau thuế 47 tỷ đồng, đã giảm so với con số lỗ 112 tỷ đồng cùng kỳ 2023. Đây cũng là quý thứ 13 liên tiếp thua lỗ của Công ty. Tổng nợ vay tài chính cuối kỳ là hơn 8.800 tỷ đồng bao gồm 2.543 tỷ đồng vay dài hạn. Trong đó, HAGL Agrico nợ CTCP Nông nghiệp Trường Hải (đơn vị thành viên của Thaco) 6.040 tỷ đồng, Hoàng Anh Gia Lai 1.120 tỷ đồng, còn lại là dư nợ từ ngân hàng.
The Export Development Canada (EDC) has publicised an article “Doing business in Vietnam: Catch this rising star in the Indo-Pacific” in which, its author – international trade writer Carol Fragiskos emphasised that strategic location makes it an ideal logistics and distribution hub.
Gemalink, is the largest deep-sea container port in the southern province of Ba Ria-Vung Tau’s Cai Mep – Thi Vai seaport complex. (Photo: VNA)
The Export Development Canada (EDC) has publicised an article “Doing business in Vietnam: Catch this rising star in the Indo-Pacific” in which, its author – international trade writer Carol Fragiskos emphasised that strategic location makes it an ideal logistics and distribution hub.
In his writing, Fragiskos said that Vietnam is called the Land of the Ascending Dragon. While its unique geographical shape may have inspired the original nickname, these days, it could be referring to its rapid economic growth
Based on data from World Economics, in the last 10 years, its compound annual growth rate has been more than 8%. Last year, Vietnam’s gross domestic product (GDP) grew by more than 5%, with forecasts for this year and next, sitting at 6% and 7%, respectively.
“With numbers like these, it’s no wonder EDC chose Vietnam for our next representation in the Indo-Pacific,” he wrote.
Scheduled to open in fall 2024, the in-market team will be led by Nathan Nelson, EDC’s first chief representative in Vietnam and innovation director for the Indo-Pacific.
In his new role, Nelson’s intention is clear: Double the amount of trade from Canada to Vietnam in the next five years.
According to the writing, Vietnam lies at the centre of the Indo-Pacific region. Located near major markets in Asia—with access to key global shipping routes—its strategic location makes it an ideal logistics and distribution hub. But it’s more than geography that makes this country a strong bet, Fragiskos emphasised.
He added that Vietnam’s middle-class growth is outpacing all others in the region. Though smaller than some of its neighbours, Vietnam’s population of close to 100 million is significant, especially considering that half are under the age of 30.
According to the International Labour Organisation, although minimum wages are rising, Vietnam’s labour costs are still lower than similar countries in the Indo-Pacific. As it shifts to higher-value industrial activities, it’s becoming an increasingly sought-after market for those with manufacturing interests.
The writer also stressed that politically stable, Vietnamese government is committed to economic reform and liberalisation. Its progressive foreign investment environment offers tax incentives and preferential rates in certain priority sectors and geographic areas. Perhaps more importantly, a transparent legal framework and predictable regulatory regime provide additional confidence for companies looking to do business in this market.
He added that Vietnam is investing heavily into infrastructure development. Committed to net zero by 2050, the country’s also looking to rapidly increase its renewable energy mix. Multiple nationwide projects are underway in green energy, waste management and sustainable urban development.
In addition, Vietnam has a healthy digital economy expected to reach 38 billion USD by 2025. Multiple sectors—including e-commerce, financial technology and artificial intelligence—have been boosted by initiatives that support innovation and entrepreneurship.
As a member of several bilateral and multilateral free trade agreements—including with China, India, the European Union and the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN)—Vietnam is a country that’s wide open for business.
Canadian exporters have preferential access to this fast-growth market through the Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership (CPTPP), which eliminates tariffs and reduces barriers for 98% of exports to member states.
Vietnam is Canada’s largest trading partner in the ASEAN, with bilateral trade in goods totalling 14 billion CAD (10.2 billion USD) in 2023.
However, that trade is one-sided, with Canada’s exports to Vietnam under 1 billion CAD.
Nelson said as quoted in the writing that after a lot of market analysis, EDC can confidently say that Vietnam has something for everyone. It’s the new star in the Indo-Pacific, especially for companies looking to diversify beyond China.
Nelson also said that now is important time for Vietnam. The country has been investing heavily in infrastructure development and is already an incredible manufacturing hub. For those reasons, he’s focused on identifying which advanced manufacturing and infrastructure projects mesh closest with Canadian capabilities, so he can foster connections and build capacity.
Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp tỉ USD có sự phân hóa mạnh trong quý đầu tiên của năm 2024.
Tính đến hết tháng 3/2024, trên HOSE có 43 doanh nghiệp có vốn hóa hơn 1 tỉ USD. Ảnh: Quý Hòa.
Lợi nhuận của 2 nhóm ngành dẫn dắt là ngân hàng và bất động sản chưa đạt kỳ vọng trong quý I/2024 đã tác động lớn đến bức tranh kinh doanh chung của toàn thị trường.
Tài chính, bất động sản áp đảo
Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết ngày 29/3, giá trị vốn hóa cổ phiếu trên HOSE đạt hơn 5,22 triệu tỉ đồng, tăng hơn 23,06% so với cuối năm 2023, chiếm hơn 94% tổng giá trị vốn hóa cổ phiếu niêm yết toàn thị trường và tương đương 51,12% GDP năm 2023 (GDP theo giá hiện hành).
Tính đến hết tháng 3/2024, trên HOSE có 43 doanh nghiệp có vốn hóa hơn 1 tỉ USD, trong đó có 2 doanh nghiệp có vốn hóa trên 10 tỉ USD là Ngân hàng Vietcombank và BIDV. Tổng giá trị vốn hóa của các doanh nghiệp tỉ USD đạt hơn 4,08 triệu tỉ đồng, tăng hơn 530.800 tỉ đồng so với thời điểm cuối năm 2023 và chiếm hơn 78,3% tổng giá trị vốn hóa của sàn HOSE.
Trước sự biến động của thị trường chứng khoán Việt Nam, “câu lạc bộ” vốn hóa tỉ USD cũng có sự thay đổi đáng kể so với hồi đầu năm 2023. Bên cạnh sự hoán đổi vị trí của các doanh nghiệp trên bảng xếp hạng vốn hóa thì số lượng thành viên cũng có sự thay đổi trong 3 tháng đầu năm 2024.
So với thời điểm cuối năm 2023, câu lạc bộ vốn hóa tỉ USD đã có thêm 1 thành viên, đó là Công ty Cổ phần Cơ Điện Lạnh (mã REE). Trong khi đó, cuối tháng 3/2024, Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc (mã KBC) đã thay thế Tổng Công ty Phát điện 3 (mã PGV) để góp mặt vào câu lạc bộ tỉ USD.
Tuy nhiên, dù có nhiều thay đổi trong 3 tháng đầu năm 2024, nhóm cổ phiếu ngành tài chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm) và nhóm cổ phiếu ngành bất động sản vẫn áp đảo câu lạc bộ tỉ USD với tỉ trọng lần lượt 53,2% và 18,2%. Nhóm cổ phiếu ngành tài chính và bất động sản chiếm tỉ trọng cao được nhìn nhận là một trong những lý do khiến việc đầu tư theo chiến lược “mua và nắm giữ” khó thực hiện ở Việt Nam.
Ông Lã Giang Trung, CEO Passion Investment, cho biết tại thị trường Việt Nam, nhóm ngành như bất động sản, chứng khoán, ngân hàng chiếm đến 60-70% giá trị vốn hóa của thị trường. Như vậy, khoảng 70% thị trường là nhóm ngành mang tính chu kỳ, trong khi những doanh nghiệp tăng trưởng, cụ thể là những doanh nghiệp vẫn duy trì được tăng trưởng dù kinh tế có khó khăn, thì rất ít. Những doanh nghiệp mang tính chu kỳ thì lợi nhuận sẽ tăng giảm theo chu kỳ kinh tế. Điều này không thuận lợi cho chiến lược “mua và nắm giữ”. Nói cách khác, sẽ không hiệu quả khi áp dụng chiến lược mua và nắm giữ cho một tập các doanh nghiệp đa phần là mang tính chu kỳ.
Theo số liệu từ FiinTrade, tính đến ngày 28/4, đã có 787/1.641 doanh nghiệp niêm yết (đại diện 83,8% vốn hóa trên 3 sàn) công bố báo cáo tài chính quý I/2024, trong đó có nhiều doanh nghiệp đầu ngành. Báo cáo cho thấy lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp niêm yết tăng chậm lại trong quý I/2024. Cụ thể, tổng lợi nhuận sau thuế của 787 doanh nghiệp niêm yết tăng trưởng 14,8% so với cùng kỳ, đóng góp chủ yếu nhờ nhóm phi tài chính (19,3%), trong khi nhóm tài chính đạt mức tăng thấp hơn (12,4%). Tăng trưởng lợi nhuận chung chậm lại đáng kể so với mức tăng của quý IV/2023 là 48,6%.
Một điểm đáng lưu ý, mức nền so sánh của quý I/2023 rất thấp, trong bối cảnh lãi suất tăng cao hồi cuối năm 2022 thì kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp dù là đầu ngành như bất động sản, ngân hàng cũng khá thấp. Biểu đồ của FiinTrade chỉ ra đây gần như là vùng đáy của lợi nhuận trong 3 năm qua. Vì thế, mức tăng trưởng 2 con số về lợi nhuận sau thuế trong quý I/2024 cũng là điều đáng quan tâm.
Cũng theo báo cáo của FiinTrade, 2 ngành trụ cột của thị trường (ngân hàng, bất động sản) cùng có kết quả kinh doanh kém sắc. Với ngân hàng, lợi nhuận sau thuế của 27/27 ngân hàng tăng 9,6% so với cùng kỳ, kém xa mức tăng trưởng dự kiến cho cả năm 2024 là 19% cũng như kỳ vọng của giới phân tích cho quý I (12-15%).
Với bất động sản, lợi nhuận sau thuế của 60/130 doanh nghiệp (đại diện 74,4% vốn hóa toàn ngành) giảm mạnh do Vinhomes (mã VHM) không còn ghi nhận thu nhập từ bán buôn dự án như cùng kỳ. Nếu không tính Vinhomes, lợi nhuận của 59 doanh nghiệp bất động sản còn lại giảm 15,1% so với cùng kỳ do ảnh hưởng của nhóm bất động sản nhà ở.
Cũng trong quý I/2024, lợi nhuận của nhóm xuất khẩu phân hóa mạnh khi lợi nhuận của nhóm cao su, nhựa, phân bón tăng mạnh; thủy sản và dệt may hồi phục chậm và hóa chất tiếp tục dò đáy.
Chia sẻ với NCĐT, ông Lê Văn Hà, Giám đốc Trung tâm Kinh doanh, Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam, cho rằng xét về tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2023, quý I/2024 có mức tăng trưởng chấp nhận được ở toàn thị trường, ngoại trừ nhóm ngành bất động sản với những vấn đề riêng của ngành. “Các doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh tốt và phần lớn là đầu ngành có thị phần cao mới có kết quả kinh doanh tăng trưởng tốt hơn phần còn lại. Tăng trưởng ổn định trong bối cảnh kinh tế, chính trị như hiện nay và đầu chu kỳ phục hồi như vậy là chấp nhận được”, ông Hà chia sẻ.
Ở góc độ đầu tư, ông Hà cho rằng thị trường hiện tại vẫn trong trạng thái đầu cơ và kỳ vọng dòng tiền sẽ có sự luân phiên giữa các nhóm ngành có mức tăng trưởng dương về lợi nhuận. Trong khi đó, để thị trường có thể tăng mạnh, nhóm cổ phiếu ngân hàng phải đóng vai trò dẫn dắt, các ngành khác luân phiên nhau và phân hóa, thời điểm này có thể là tháng 6 hoặc tháng 7. Còn trong tháng 5, ông Hà cho rằng những cổ phiếu thuộc các nhóm ngành như bất động sản khu công nghiệp, bán lẻ, dầu khí và thép có thể là các nhóm ngành mà nhà đầu tư nên quan tâm.
Top 5 vốn hóa có gì?
Thời điểm cuối quý I/2024, Vietcombank, BIDV, VietinBank, Vinhomes và PV GAS là 5 doanh nghiệp có giá trị vốn hóa lớn nhất trên sàn HOSE. Kết quả kinh doanh của Top đầu vốn hóa cũng có sự phân hóa trong quý đầu tiên của năm 2024.
Quý I/2024 có thể nói là không thuận lợi với “quán quân vốn hóa” khi doanh thu từ các hoạt động kinh doanh của Vietcombank đều sụt giảm so với cùng kỳ. Trong đó, nguồn thu nhập chính đến từ lãi và các khoản thu nhập tương tự giảm gần 1%, xuống còn hơn 14.078 tỉ đồng trong quý I. Các nguồn thu từ lãi dịch vụ, kinh doanh ngoại hối hay mua bán chứng khoán kinh doanh cũng đều sụt giảm so với cùng kỳ năm 2023. Theo đó, lợi nhuận sau thuế của Vietcombank giảm hơn 4,5% so với quý I/2023, còn hơn 8.585 tỉ đồng.
BIDV và VietinBank thì tăng trưởng nhẹ trong quý I/2024. Tuy nhiên, kết quả kinh doanh của mỗi ngân hàng lại mang một màu sắc riêng biệt. VietinBank tăng trưởng cả về doanh thu lẫn lợi nhuận. Cụ thể, quý đầu tiên của năm nay, ngân hàng này thu về hơn 15.174 tỉ đồng từ lãi thuần, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước.
Các nguồn thu khác cũng có sự phân hóa đáng kể. Trong khi kinh doanh ngoại hối và hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh ghi nhận mức tăng trưởng 2 con số, thì lãi từ dịch vụ và hoạt động mua bán chứng khoán đầu tư lại không khả quan trong quý này. Cùng với đó, VietinBank cũng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng hơn 8.000 tỉ đồng trong quý đầu năm, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả, lãi sau thuế của ngân hàng này chỉ còn hơn 4.831 tỉ đồng, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước.
Khác với VietinBank, BIDV tăng trưởng lên đến 6,4% về lợi nhuận sau thuế, trong khi thu nhập từ lãi thuần lại giảm 2,8% so với cùng kỳ trong quý I/2024. Nguyên nhân là do các hoạt động ngoài lãi như lãi/lỗ từ dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, mua bán chứng khoán kinh doanh đều tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ. Ngoài ra, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của BIDV cũng giảm hơn 20% so với cùng kỳ, chỉ còn gần 4.390 tỉ đồng, giúp lợi nhuận của ngân hàng này tăng trưởng hơn 6% mặc dù hoạt động kinh doanh chính đi lùi.
Các thương hiệu lớn ngành ngân hàng chỉ ghi nhận sự biến động dưới 2 con số về lợi nhuận trong quý I/2024. Trong khi đó, lợi nhuận của “đại gia bất động sản” Vinhomes và “đại gia tiền mặt” PV GAS lại sụt giảm mạnh so với cùng kỳ.
Lợi nhuận sau thuế của Vinhomes giảm hơn 92% so với quý I/2023 do số lượng bất động sản bàn giao tới khách hàng sụt giảm, làm giảm lợi nhuận gộp của hoạt động chuyển nhượng bất động sản. Hoạt động tài chính cũng không mấy khả quan do sự sụt giảm thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng các khoản đầu tư. Kết quả, Vinhomes đã trở thành nguyên nhân chính kéo lùi lợi nhuận toàn ngành trong quý I/2024.
Dẫu vậy, khi nhìn về bức tranh của ngành bất động sản, bà Nguyễn Thu Hằng, Tổng Giám đốc Vinhomes, đánh giá: “Về phía cầu, chúng tôi cho rằng nhu cầu nhà ở vẫn rất lớn, vì xu hướng đô thị hóa vẫn tiếp diễn và việc đầu tư hạ tầng của các tỉnh, thành phố vẫn được đẩy mạnh. Điều này sẽ thúc đẩy các dự án bất động sản ra đời. Ngoài ra, dân số Việt Nam tương đối trẻ, nhu cầu an cư vẫn rất lớn”.
Về phía cung, CEO của Vinhomes nhận định nguồn cung ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng sẽ phục hồi, song ở mức hạn chế, nhất là các dự án có sản phẩm tốt, có pháp lý đảm bảo, vị trí đẹp và tiện ích đồng bộ.
Trở lại với bức tranh kinh doanh của Top 5 vốn hóa, dù lợi nhuận sụt giảm tới 2 con số trong quý I/2024, PV GAS vẫn có những dấu ấn rất riêng của “đại gia tiền mặt”. Trong kỳ, doanh thu thuần tăng hơn 10% so với cùng kỳ, nhưng do giá vốn bị đẩy lên tới 20% khiến lợi nhuận gộp của PV GAS xuống còn gần 3.700 tỉ đồng, giảm 24% so với cùng kỳ.
Nguyên nhân chủ yếu là do sự sụt giảm cả về giá bán trên hợp đồng và sản lượng khí tiêu thụ dẫn đến doanh thu và lợi nhuận sụt giảm tương ứng. Dù vậy, “đại gia tiền mặt” vẫn rất “giàu có” thể hiện qua quy mô tài sản. Cuối quý I/2024, lượng tiền mặt (bao gồm tiền và các khoản tương đương tiền, tiền gửi ngân hàng) của PV GAS lên tới 42.613 tỉ đồng, chiếm hơn 46% tổng tài sản.
Với lượng tiền mặt dồi dào, PV GAS thu về hơn 436,3 tỉ đồng tiền lãi, tuy có sự sụt giảm so với cùng kỳ năm trước do mặt bằng lãi suất thấp, nhưng ước tính mỗi ngày PV GAS “ngồi không” cũng thu về hơn 4,8 tỉ đồng.
Có thể thấy, không chỉ các doanh nghiệp nhỏ, mà ngay cả những doanh nghiệp đầu ngành cũng gặp không ít khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của Chính phủ, nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng được kỳ vọng tiếp tục phục hồi trong năm 2024 nhưng sẽ có sự phân hóa nhất định trong từng nhóm ngành, từng doanh nghiệp cụ thể.
Khóa học Quản trị trải nghiệm khách hàng (CXM) là sản phẩm học thuật cao cấp mới nhất của FSB phối hợp triển khai cùng Đại học Michigan (MSU). Sau khi hoàn thành chương trình đào tạo, học viên sẽ được cấp chứng chỉ quốc tế từ MSU.
Đại học Michigan hiện là trường dẫn đầu thế giới về đào tạo Quản trị trải nghiệm khách hàng bởi những kiến thức được ứng dụng tốt trong thực tiễn. Theo US News, MSU được xếp hạng TOP 40 Hoa Kỳ, và đứng thứ 105 trong bảng xếp hạng top 1.000 trường đại học hàng đầu thế giới (Times Higher Education).
Sáng nay (18/05/2024), Viện Quản trị & Công nghệ FSB cùng Đại học Michigan đã chính thức khai giảng khóa học cao cấp Quản trị trải nghiệm khách hàng Cấp chứng chỉ Quốc tế với sự tham gia đông đảo của học viên trên cả nước. Khóa học này đánh dấu lần thứ 3 mà hai bên chính thức hợp tác cùng nhau trong thời gian từ năm 2021 đến nay.
Với đội ngũ giảng viên là những chuyên gia, doanh nhân quốc tế hàng đầu trên thế giới, khóa học CXM tại FSB hứa hẹn sẽ mang đến những trải nghiệm kiến thức vô cùng thú vị và bổ ích dành cho các học viên. Trải nghiệm khách hàng luôn là một yếu tố tiên quyết để mang đến thành công cho doanh nghiệp. Không chỉ dừng lại ở việc làm hài lòng khách hàng, việc quản trị được trải nghiệm cũng góp phần để thúc đẩy doanh thu và giúp doanh nghiệp giữ được mối quan hệ tốt với những đối tượng tiềm năng.
Khóa học CXM – Quản trị trải nghiệm khách hàng tại FSB đã sẵn sàng cùng doanh nghiệp bắt đầu một hành trình phát triển mới đầy năng lượng!