“Linh hoạt” bài học sống còn trong kỷ nguyên biến động và bất định

Tối ngày 18/11/2021, Viện Quản trị & Công nghệ FSB, ĐHFPT đã tổ chức thành công Hội thảo Quản trị tháng 11 – LINH HOẠT: DẪN DẮT TỔ CHỨC TRONG THỜI ĐẠI BIẾN ĐỘNG VÀ BẤT ĐỊNH với diễn giả Dương Trọng Tấn chia sẻ đến hơn 300 học viên FSB trên cả nước.

Chủ đề hội thảo “thời sự” thu hút hơn 300 học viên FSB trên khắp cả nước

Ông Dương Trọng Tấn là CEO của Tổ hợp giáo dục Agilead Global, chuyên gia cao cấp về quản trị và khởi nghiệp tại Học viện Agile – đơn vị tiên phong chuyển đổi linh hoạt và đổi mới quản trị tại Việt Nam. Trước đó, ông từng có nhiều năm công tác tại Khối giáo dục FPT, và tham gia nhóm cải cách giáo dục Cánh Buồm. Là một trong những người tiên phong lan tỏa tri thức Agile, ông đã tận tâm chia sẻ về quản trị linh hoạt (agile management & agile leadership), cùng với yêu cầu cấp thiết về việc tái tạo lại các tổ chức để trở nên linh hoạt hơn (agile organization) trong suốt hội thảo cho các nhà quản trị – học viên các chương trình MBA, MiniMBA của FSB.

“Linh hoạt: Dẫn dắt tổ chức trong thời đại biến động và bất định” chủ đề của buổi hội thảo cũng là tên của tựa sách diễn giả sắp ra mắt đầu năm 2022, nghiên cứu về tổ chức linh hoạt và sự lãnh đạo trong tổ chức linh hoạt.

Trong bối cảnh do tác động của đại dịch, “linh hoạt” trở thành chủ đề càng thời sự hơn cho doanh nghiệp hiện nay. Khi một tổ chức cố gắng duy trì thì trong cuộc chơi của thị trường rất nhiều cơ hội được tạo ra, các “tay chơi” tận dụng nguồn lực rất dễ dàng huy động từ thị trường mở, từ internet, công nghệ tham gia vào cuộc chơi để cuộc chơi càng nên bất định, trong thời gian ngắn nếu không đổi mới sáng tạo và thích ứng kể cả khi đang dẫn đầu thị trường cũng sẽ thất bại.

Đáng chú ý, các đế chế Yahoo, Nokia, Compaq, Kodak, …, các “tay chơi” tầm cỡ biến mất là bài học cho các doanh nghiệp trong công cuộc tiếp thu tri thức mới, gây dựng cho mình năng lực cạnh tranh trong bối cảnh mới, linh hoạt, thích nghi nhanh hoặc với nhiều lý do chủ quan gây cho mình những bước chậm hơn so với đối thủ. Tình hình đó làm cho chúng ta tìm cách tổ chức khác đi, nếu quản trị theo kiểu cũ, các công ty đi đầu cũng sẽ không thể giữ vững vị trí mất cơ hội để vượt lên.

Lãnh đạo doanh nghiệp tìm “chìa khóa” linh hoạt cùng chuyên gia

Một số cách thức để tổ chức khác đi được tác giả "Cẩm nang Scrum" chia sẻ với các nhà quản trị như Holacracy – hình thức cực phẳng, một tập hợp người hoàn toàn chủ động, quản lý công việc theo vòng tròn, không có người quản lý giao việc, …; mô hình McKinsey – công ty bao gồm các bộ phận nhỏ nhất là các tế bào, gồm các cá thể với chức năng khác nhau, …..; tổ chức Scrum – nhóm nhỏ liên chức năng làm việc chặt chẽ với nhau, nhóm tối đa 9 người,…. hiện thực hóa yêu cầu công việc cuối cùng nhanh chóng.

Bên cạnh đó, tác giả quyển sách "Linh hoạt và tinh gọn" lấy ví dụ về Tập đoàn Amazon là một tiêu biểu trong tổ chức nhóm nhỏ, văn hóa nhóm nhỏ rất đặc trưng, tinh thần khởi nghiệp rất mạnh mẽ, người ta nhận xét Amazon như tập đoàn lớn với trái tim “khởi nghiệp tinh gọn” – các nhóm sở hữu tinh thần khởi nghiệp như thể nhóm đó bắt đầu khởi nghiệp tạo giá trị cho khách hàng, đổi mới rất nhanh chóng. CEO Amazon Jeff Bezos đưa ra quy tắc 2-pizza “Không bao giờ có cuộc họp mà hai chiếc pizza không đủ để cá nhóm cùng ăn” để cuộc họp chỉ có các nhóm rất nhỏ mà phải tạo ra được kết quả, nhanh chóng nắm bắt ý tưởng khách hàng, được trao quyền ra quyết định tạo ra giải pháp cho khách hàng để nhanh chóng thích ứng với yêu cầu của khách hàng, của thị trường.

Sau cùng, để giải quyết các vấn đề “quan liêu” trong tổ chức, doanh nghiệp cần linh hoạt ứng biến, nhanh nhẹn tiếp xúc với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường, gia tăng tính sáng tạo, tính phản hồi với môi trường. Đầu tiên, cơ cấu lại tổ chức dưới dạng mạng lưới nhóm nhỏ liên chức năng và tự quản lý – nhóm có đủ năng lực tạo kết quả. Thứ hai là lấy khách hàng làm trung tâm. Thứ ba, tổ chức thì phẳng, làm việc gần khách hàng nhất có thể, bớt đi trung gian và đảm bảo có hệ thống IT đi kèm thì sự phẳng hóa lại càng tốt hơn. Cuối cùng, ưu tiên khả năng “phản hồi” với bên ngoài nhanh chóng và hiệu quả.

Gần 100 học viên vẫn hiện diện online để chia sẻ sâu rộng sau khi chương trình kết thúc

Cấp bách và thực tế trong “biến động và bất định”, hội thảo “linh hoạt” thu hút hơn 300 nhà quản trị doanh nghiệp khắp cả nước tham dự. Sau khi chương trình kết thúc, hơn 100 anh chị vẫn hiện diện trên zoom tiếp tục trao đổi, trò chuyện cùng diễn giả sau chương trình về những vấn đề nóng của doanh nghiệp của mình. FSB rất hân hoan để ghi nhận quan tâm tích cực này và hy vọng sau khi hội thảo diễn ra, các nhà quản trị cũng gặt hái cho mình những bài học thực tiễn để áp dụng linh hoạt, đổi mới, sáng tạo vào tổ chức doanh nghiệp.

Tin FSB

Vì sao những nút thắt trong chuỗi cung ứng toàn cầu chưa biến mất?

Cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu đang dần hạ nhiệt. Nhưng giới chuyên gia cho rằng các vấn đề sẽ không biến mất hoàn toàn.

Giới quan sát cho rằng tình trạng tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu đã qua đi. Ảnh: Reuters.

"Tình trạng tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu đã qua. Nhưng không phải mọi vấn đề của ngành vận tải biển đều biến mất", ông Esben Poulsson – Chủ tịch Phòng Vận chuyển Quốc tế – nói với CNBC.
 
Ông cho rằng điều tồi tệ nhất đã qua. Tuy nhiên, chuỗi cung ứng toàn cầu vẫn sẽ gặp phải những biến động. Theo ông Poulsson, năm nay, các nhà bán lẻ đặt hàng từ sớm và tránh được tình trạng thiếu hàng.
 
"Ngoài ra, các tàu container mới chuẩn bị được đưa vào sử dụng. Công suất hiện tại sẽ được tăng thêm trong vòng 24-36 tháng tới", ông nhận định.

"Điều tồi tệ nhất đã qua"
 
Sau khi bị ảnh hưởng nặng nề bởi các biện pháp hạn chế liên quan đến đại dịch, thương mại toàn cầu đã phục hồi mạnh mẽ. Trước đó, cước phí vận tải tăng vọt do các công ty vận tải biển, nhà cung cấp dịch vụ hậu cần và cảng biển phải vật lộn để theo kịp đà tăng vọt của khối lượng hàng hóa.
 
Ngay cả khi những con tàu container cập bến, hàng hóa cũng sẽ bị dồn vào hàng nghìn container khác đang mắc kẹt ở cảng. Chúng cần đến số lượng lớn xe tải và xe kéo trong một thời gian ngắn.
 
Trong khi đó, những đợt bùng phát dịch mới tại châu Á đã đe đọa nguồn cung hàng hóa từ đồ điện tử, phụ tùng ôtô, cà phê đến quần áo.
 
Theo chỉ số The World Container Index của hãng tư vấn và nghiên cứu hàng hải Drewry, giá cước vận tải toàn cầu đã giảm 0,5% xuống 9.146 USD/container 12 m trong tuần 15-21/11 so với một tuần trước đó. Tuy nhiên, giá vẫn tăng 238% trong vòng một năm qua.
 
Ông Poulsson cho rằng ngành vận tải biển vẫn còn đối mặt với một số vấn đề kéo dài. Một trong số đó là tiến độ tiêm chủng cho các thủy thủ còn chậm.

Nhiều quốc gia vẫn áp đặt các hạn chế di chuyển để hạn chế sự lây lan của dịch Covid-19. Điều đó khiến một số thủy thủ không thể di chuyển giữa nơi làm việc và nước cư trú.
 
Một báo cáo của Diễn đàn Hàng hải Toàn cầu cho biết tỷ lệ thuyền viên được tiêm chủng đã tăng từ 31% trong tháng 10 lên 41% vào tháng này. "Nhưng vấn đề này vẫn chưa biến mất", ông Poulsson nhận xét.
 
Ngoài ra, theo giới quan sát, quá trình phục hồi còn bị cản trở bởi nhu cầu mạnh mẽ tại phương Tây, tình trạng tắc nghẽn cảng biển, thiếu hụt tài xế xe tải và giá cước vận tải toàn cầu vẫn ở mức cao. Cùng với đó là rủi ro thiên tai và các đợt bùng phát Covid-19.
 
Số lượng tàu chờ dỡ hàng tại các cảng Los Angeles và Long Beach (Mỹ) đã giảm đi nhưng vẫn ở gần mức kỷ lục. 71 tàu container neo đậu ngoài khơi hôm 19/11, theo Marine Exchange of Southern California.
 
17 tàu khác dự kiến tới nơi trong vòng 3 ngày tới. Hôm 16/11, con số lên tới 86 tàu. Việc tàu container neo đậu ngoài khơi vốn là điều bất thường trước khi đại dịch bùng phát.
 
Vấn đề dai dẳng
 
Còn trên toàn cầu, theo nhà cung cấp dữ liệu eeSea, so với tháng 9, tình trạng chậm trễ trong vận chuyển đã giảm bớt vào tháng 10. Nhưng số lượng tàu chờ bên ngoài các cảng vẫn không giảm nhiều.
 
Tính đến sáng 19/11, 500 tàu container lớn đang chờ cập cảng bên ngoài các cảng châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ, tăng nhẹ so với con số 497 ngày 8/10.
 
Nhiều chuỗi siêu thị lớn như Walmart Inc., Home Depot Inc. và Target Corp. đã sẵn sàng cho kỳ nghỉ lễ. Họ nhập hàng sớm hơn bình thường trong năm nay.
 
Nhưng hầu hết doanh nhân trong ngành đều tin rằng vấn đề vẫn chưa kết thúc. Họ lo ngại vấn đề tại các cảng biển và đường bộ. Một số nhà bán lẻ báo cáo tỷ suất lợi nhuận thấp hơn vì chi phí vận chuyển tăng cao.

Dù tình trạng tắc nghẽn chuỗi cung ứng toàn cầu đã được cải thiện, hầu hết nhà bán lẻ Mỹ vẫn lo ngại vấn đề tại các cảng biển và đường bộ. Một số nhà bán lẻ báo cáo tỷ suất lợi nhuận thấp hơn vì chi phí vận chuyển tăng cao. Ảnh: Reuters.
 
"Thời gian vận chuyển hàng hóa từ Đức đến Anh mất tới 6 tuần. Trước kia, chúng tôi chỉ phải chờ 2 tuần", bà Christine Humphreys – nhà đồng sáng lập của Mindful Drink Company Ltd. – cho biết.
 
Tại Mỹ – điểm đến của nhiều lô hàng được sản xuất tại châu Á, tình trạng tắc nghẽn vẫn chưa có nhiều dấu hiệu thuyên giảm. Gần đây, các tuyến đường sắt vận chuyển hàng hóa đã dỡ bỏ hạn chế đối với hàng hóa nhập cảnh vào những bến cảng bị tắc nghẽn ở khu vực Chicago.
 
Nhưng những thùng hàng vẫn chất đống tại cảng Los Angeles và Long Beach. Theo các hãng vận tải, tình trạng tắc nghẽn của những tàu container ngoài khơi cho thấy dòng chảy vận chuyển trong nước vẫn chưa được cải thiện.

Nguồn: Zing News

Chu kỳ kinh tế và nỗi niềm khủng hoảng mỗi 10 năm

Bất kì quá trình phát triển kinh tế nào cũng luôn tồn tại những biến động khó lường trước, có thể là do sự thay đổi cung cầu, sản lượng, lạm phát, lãi suất hay tình trạng thất nghiệp,… Đó là những đặc điểm chung của một nền kinh tế thị trường, qua góc nhìn lịch sử, mỗi nền kinh tế sẽ không tăng trưởng theo một trạng thái ổn định mà sẽ có lúc thịnh, lúc suy. Những biến đổi đó có tính chu kỳ, và được gọi là ‘Chu kỳ kinh tế’.
 
Chu kỳ kinh tế là gì ?
 
Chu kỳ kinh tế (Economic Cycle) hay Chu kỳ kinh doanh (Bussiness Cycle) là thuật ngữ dùng để chỉ trạng thái biến động của nền kinh tế thị trường từ các giai đoạn mở rộng cho đến suy thoái và có tính chu kỳ.

Trong thế giới hiện đại ngày nay đa phần các nền kinh tế đều là nền kinh tế thị trường và do đó phụ thuộc bởi quy luật cung-cầu, cung và cầu quyết định giá cả nói riêng và ảnh hưởng đến nền kinh tế theo những biến số khác nhau. Có thể liệt kê ra như cán cân thương mại, năng suất, lạm phát, lãi suất hay tỉ giá hối đoái… các biến số này định hình và duy trì trạng thái của nền kinh tế nói chung.

Chu kỳ kinh tế có thể hiểu như sự chuyển động lên xuống của GDP, yếu tố quyết định sự tăng trưởng dài hạn tổng thể của mọi nền kinh tế. Về cơ bản, GDP, lãi suất, lạm phát, tỷ lệ công ăn việc làm hay chi tiêu tiêu dùng… đều là những chỉ báo giúp chúng ta đánh giá và hiểu rõ hơn về nền kinh tế đang ở giai đoạn nào.
 
Các pha của chu kỳ kinh tế
 
Quá trình biến động này về cơ bản có thể chia ra làm 03 giai đoạn:
 
Suy thoái: Là pha thu hẹp của nền kinh tế, sản lượng thực tế rời từ đỉnh xuống dưới sản lượng tiềm năng và tiến tới đáy của chu kỳ. Trong giai đoạn suy thoái có thể thấy rõ nhất sản lượng kinh tế giảm sút, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao, thị trường hàng hóa, dịch vụ, vốn…bị thu hẹp đáng kể và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
 
Đặc trưng của pha suy thoái là sự sụt giảm GDP thực tế, ở Mỹ và Nhật Bản thì quy định rằng khi tốc độ tăng trưởng GDP bị âm trong 2 quý liên tiếp thì đó là pha suy thoái.
 
Phục hồi: Là pha mở rộng, tăng trưởng trở lại của nền kinh tế. Trong đó sản lượng thực tế từ vị trí đáy của chu kỳ tăng trở lại mức sản lượng tiềm năng và tiến tới đỉnh mới của chu kỳ. Giai đoạn này đặc trưng bởi tỷ lệ thất nghiệp giảm, thu nhập tăng, thị trường hàng hóa và dịch vụ sôi động trở lại, tỷ lệ hàng tồn kho giảm để đáp ứng theo nhu cầu tái thiết của thị trường.
 
GDP trong giai đoạn này sẽ tăng trở lại bằng với mức trước suy thoái, điểm ngoặt giữa hai giai đoạn suy thoái-phục hồi chính là đáy của chu kỳ kinh tế.
 
Hưng thịnh: Đây là giai đoạn đạt đỉnh của chu kỳ kinh tế. Sản lượng thực tế, năng suất, công ăn việc làm, hoạt động tiêu dùng, sản xuất của nền kinh tế đạt đến mức cực đại. Về cơ bản, đây là giai đoạn mà nền kinh tế đã chạm tới mức cao nhất, thị trường đã phát triển hết tiềm năng của nó.
 
GDP trong giai đoạn này tiếp tục tăng nhanh và vượt qua mức trước lúc suy thoái. Nền kinh tế đang ở đỉnh cao của nó, trước khi bắt đầu một pha suy thoái mới thể hiện bởi điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái, và được gọi là đỉnh của một chu kỳ kinh tế.

Tầm quan trọng của chu kỳ kinh tế
 
Với đa phần những nền kinh tế thị trường hiện nay thì yếu tố quyết định sự thành công của mô hình kinh tế này chính là sự luân chuyển giữa cung và cầu, hay về cơ bản làm cho cuộc sống của mỗi người dân tốt hơn bằng cách sản xuất và tiêu thụ nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ theo thời gian.
 
GDP thể hiện lên mức sống của một quốc gia, phản ánh lượng hàng hóa sản xuất và tiêu dùng. Việc GDP tăng đồng nghĩa với một nền kinh tế phát triển thành công. GDP chính là con số để chúng ta có thể đánh giá xem nền kinh tế đang ở giai đoạn nào của chu kỳ, hay nói cách khác tất cả mọi hoạt động kinh tế đều bị tác động bởi trạng thái của chu kỳ kinh tế đó.
 
Khi nền kinh tế trong giai đoạn phát triển, mở rộng thì các doanh nghiệp sẽ tạo ra lợi nhuận nhiều hơn, nhu cầu về hàng hóa và sản xuất được ổn định, chi tiêu tiêu dùng tăng cao từ đó dẫn tới nhiều hệ quả tích cực như tạo ra nhiều việc làm hơn, giữ lạm phát ở mức ổn định…
 
Ngược lại khi nền kinh tế bước vào giai đoạn suy thoái thì nguồn lợi từ các hoạt động kinh tế cũng giảm đi, việc làm cũng ít đi, thu nhập khả dụng và chi tiêu tiêu dùng cũng từ đó giảm sút, thị trường hàng hóa và sản xuất hoạt động kém linh hoạt.
 
Kinh tế là một vòng luẩn quẩn và có tính lặp nên cần được mở rộng liên tục. Tuy nhiên, cần có các biện pháp để kiểm soát tốt nhằm đảm bảo nền kinh tế nằm trong tầm kiểm soát và không phát triển quá nóng. Một nền kinh tế phát triển quá nóng, quá nhanh là một nền kinh tế đã tăng trưởng mạnh mẽ trong một thời gian dài nhưng dễ đẩy lạm phát tăng cao. Và lạm phát quá cao dẫn đến sự kém hiệu quả trong một nền kinh tế thị trường.
 
Nếu không có biện pháp giúp kiểm soát tốt nền kinh tế đang tăng trưởng quá nhanh thì có thể dẫn đến nhiều vấn đề tiêu cực từ đầu cơ, bong bóng tài chính, lạm phát cao và cuối cùng là “Khủng hoảng kinh tế”.
 
Ổn định kinh tế vĩ mô
 
Nếu nhìn lại các cuộc khoảng hoảng kinh tế thế giới đã xảy ra như cuộc khủng hoảng vào năm 1930 đã châm ngòi cho Thế chiến thứ 2, hay gần đây như vào năm 1987, 1997 hay 2008 có thể thấy được thời gian mà một cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra ngày càng ngắn, nhiều chuyên gia thậm chí còn cho rằng cứ mỗi 10 năm, kinh tế thế giới sẽ có chiều hướng biến động tiêu cực 01 lần, hay tệ hơn nữa là trở thành một cuộc khủng hoảng.
 
Năm 2020, bắt đầu với đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều nền kinh tế trên thế giới, nhưng xét theo góc độ kinh tế học nói riêng thì năm 2020 là một năm buồn của nền kinh tế thế giới. Thị trường chứng khoán Mỹ sụp đổ, giá dầu lao dốc, nhu cầu USD tăng đột biến đã làm cho nền kinh tế thế giới nói chung bị chao đảo, nguy cơ về một cuộc khủng hoảng kinh tế mới lại sắp xuất hiện ngày càng rõ nét.
 
Vậy nên để có một nền kinh tế hoạt động có hiệu quả và đạt được sự hưng thịnh trong dài hạn thì mỗi quốc gia cũng cần có những cách thức riêng để kiểm soát và ổn định lại chu kỳ kinh tế của chính mình. Hiện nay vòng luẩn quẩn về kinh tế này được đồng thời kiểm soát bởi Chính phủ và Ngân hàng trung ương.
 
Ở đây, chính sách tài khóa là công cụ ưu việt nhất nhằm trợ giúp Chính phủ trong việc ổn định kinh tế vĩ mô. Khi nhận thấy nền kinh tế đang bế tắc hay gặp khủng hoảng, Chính phủ có thể cho mở rộng chính sách tài khóa. Ngược lại sẽ siết chặt chính sách này khi thị trường đã vượt quá tiềm năng của nó. Cùng mục đích đó, ngân hàng trung ương sẽ dùng các chính sách tiền tệ. Khi chu kỳ gần chạm đáy, ngân hàng trung ương hạ lãi suất hoặc sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng và ngược lại để ngăn các pha tăng trưởng chạm đỉnh.

Nguồn: Thương trường

FSB triển khai thành công chương trình đào tạo Digital Marketing – Giải pháp số tái sinh cho doanh nghiệp

Khoá học với sự tham gia của dàn diễn giả là lãnh đạo cấp cao Cen Group, ICTS, Vinalink… đã đem đến một lượng lớn kiến thức bổ ích về về việc áp dụng và thực thi các kế hoạch Marketing số để các nhà quản lý có thể áp dụng cho doanh nghiệp mình tồn tại và phát triển nhanhh hơn nữa trong thời kỳ công nghệ mới. 

Dàn chuyên gia cấp cao của khoá học

Trong 2 ngày từ  6 – 7/11/2021, Viện Quản trị & Công nghệ FSB, Đại học FPT đã triển khai thành công khoá học “Chương trình đào tạo Digital Marketing – Giải pháp số tái sinh cho doanh nghiệp” theo hình thức học trực tuyến qua ứng dụng Zoom, với hơn 100 học viên là các lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp trên toàn quốc.
 
Chương trình gồm 3 phiên toạ đàm với những chia sẻ “thực chiến” về việc áp dụng Digital Marketing vào chiến lược kinh doanh đến từ ba chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong các lĩnh vực tư vấn chiến lược và bất động sản.
 
Sáng ngày 6/11, trong buổi đầu tiên của chương trình với chủ đề “Marketing số – xu hướng tất yếu để tồn tại” , chuyên gia Bùi Thị Ngọc Thu – CEO/ Founder của ICTS Training & Coaching, chuyên gia hàng đầu mảng storytelling đã nhấn mạnh tầm quan trọng của chuyển đối số trong doanh nghiệp nói chung và các phòng ban nói riêng. Đồng thời, chuyên gia cũng cá nhân hoá thông điệp quảng cáo và trải nghiệm khách hàng, giúp các nhà quản lý doanh nghiệp trả lời câu hỏi “Trong Digital Marketing, công nghệ quan trọng hơn hay nội dung quan trọng hơn?”.
 
Tiếp theo, Diễn giả Shark Phạm Thanh Hưng – Phó chủ HĐQT Cen Group chia sẻ về tầm quan trọng của thúc đẩy chuyển đổi số trong doanh nghiệp để mang lại hiệu quả kinh doanh và bài học kinh nghiệm thành công của CEN group trong việc áp dụng chuyển đổi số.
 
Phiên toạ đàm trong buổi sáng ngày 7/11 với chủ đề “Xây dựng và thực thi chiến lược Marketing số” với sự tham gia của diễn giả Tuấn Hà – Người sáng lập Học viện đào tạo Digital Marketing Vinalink Academy, đồng thời là chuyên gia tư vấn chiến lược Digital Marketing hàng đầu Việt Nam. Trong phiên toạ đàm này, chuyên gia đã hướng dẫn cách tư duy kiểu mới về Bán hàng và Marketing dựa trên các nền tảng số, từ đó, xác định được thực trạng của doanh nghiệp và thị trường để vạch ra được một lộ trình thực thi chiến lược marketing số thành công. Đồng thời, diễn giả cũng giúp các nhà quản lý phương thức lựa chọn công cụ Marketing số phù hợp với doanh nghiệp và đưa ra giải pháp khắc phục những khó khăn trong việc tiếp cận, quản lý, đo lường và triển khai Digital Marketing.
 
Trong phiên toạ đàm cuối cùng về “Thực hành xây dựng chiến lược Marketing số và các bài học thành công tại Việt Nam” chiều ngày 7/11, các học viên đã có cơ hội thuyết trình về những chiến lược Marketing số của doanh nghiệp trước chuyên gia Tuấn Hà và nhận được những lời nhận xét cùng lời khuyên bổ ích về cách nâng cao năng lực cạnh tranh số cho doanh nghiệp.
 

Bài thuyết trình cuối khoá của các nhóm học viên diễn ra sôi nổi, hào hứng

 
Bên cạnh việc lắng nghe chia sẻ từ các diễn giả với bề dày kinh nghiệm cao, trong suốt buổi học, các học viên có cơ hội tương tác và đặt câu hỏi trực tiếp cho các diễn giả để nhận được lời giải cho những bài toán khó khăn mà doanh nghiệp đang phải đối mặt trong thời kỳ dịch bệnh, hậu Covid- 19. Ngoài ra họ cũng nhận được công thức QCSD để tìm ra sự khác biệt trong kinh doanh ngành hàng F&B nhằm giúp “tái sinh” doanh nghiệp trong thời kỳ giãn cách.
 
Kết thúc khoá học, FSB đã cấp chứng chỉ cho hơn 100 học viên tham dự. Anh Lâm Bình Xuyên – Sale Manager của Công ty Bekaert Việt Nam cho biết: “Khoá học đã giúp tôi nhìn thấy được bức tranh tổng thể về chiến lược kinh doanh  Marketing , kèm theo đó là chia sẻ của các chuyên gia đầu ngành về các công cụ Digital Marketing cùng những kinh nghiệm thực tế đã giúp tôi có thể phát triển và nâng cao hiệu suất của công ty.”
 
Anh Nguyễn Minh Hùng – Giám đốc MobiFone tỉnh Sóc Trăng chia sẻ anh rất tâm đắc với phần chia sẻ của diễn giả Ngọc Thu. Và những gì công ty anh đang triển khai đã và đang đi đúng hướng. Anh Hùng nói thêm: “Nhờ khoá học cùng sự chia sẻ bổ ích của ba chuyên gia, tôi có cơ hội để đánh giá lại những chiến lược kinh doanh của công ty liệu có đang đi đúng hướng hay không. Đồng thời, tôi được học hỏi thêm được nhiều những kinh nghiệm thực chiến của các chuyên gia”
 
Anh Nguyễn Minh Hùng là một học viên đã tham gia nhiều chương trình đào tạo của Viện Quản trị & Công nghệ FSB. Anh tự hào chia sẻ: “Việc áp dụng và triển khai những kiến thức mà tôi đã học từ các khoá học của FSB giúp tôi tự tin hơn trong thao tác trên các nền tảng xã hội, từ đó đã thực sự nâng cao hiệu quả bán hàng của doanh nghiệp”.
 
Chương trình Đào tạo Digital Marketing – Giải pháp số tái sinh cho các doanh nghiệp được FSB khai giảng liên tục. Chi tiết xem tại: http://khoangan.fsb.edu.vn/marketing/ 

Tin FSB

Doanh nghiệp Việt và bài toán đón đầu xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu

Sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng toàn cầu đang đem lại cơ hội cho các doanh nghiệp Việt. Nhưng, chúng ta sẽ tận dụng cơ hội này ra sao, đó là vấn đề cần được nhắc đến…

Chuỗi cung ứng toàn cầu là gì?
 
Trước khi đề cập đến khái niệm chuỗi cung ứng toàn cầu, chúng ta hãy cùng xem qua khái niệm về chuỗi cung ứng.

Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung và đại dịch COVID-19 đang phá vỡ chuỗi cung ứng toàn cầu.
 
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về chuỗi cung ứng. Tuy nhiên có thể hiểu một cách đơn giản, chuỗi cung ứng là một hệ thống các hoạt động cung cấp, sản xuất và phân phối một sản phẩm hoặc dịch vụ từ nhà cung cấp đầu tiên đến người tiêu dùng cuối cùng.
 
Từ đó, chuỗi cung ứng toàn cầu là bao gồm tất cả các hoạt động liên quan đến việc cung cấp, sản xuất và phân phối một sản phẩm hoặc dịch vụ từ nhà cung cấp đầu tiên đến người tiêu dùng cuối cùng trên phạm vi toàn cầu. Trong mạng lưới đó, một doanh nghiệp sẽ mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài để thực hiện việc cung cấp, sản xuất và phân phối một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó.
 
Thời điểm hiện tại, theo báo cáo từ các nhà kinh tế, chuỗi cung ứng toàn cầu đang được điều chỉnh lại để giảm rủi ro gián đoạn trong tương lai. Cộng đồng quốc tế và các nhà đầu tư đang tìm cách chuyển dịch chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc sang Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Song, các doanh nghiệp Việt cần phải chuẩn bị năng lực như thế nào để nắm bắt được cơ hội đang đến?
 
Cơ hội cho doanh nghiệp Việt
 
Rõ ràng, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung và đại dịch COVID-19 đã làm gián đoạn sự vận hành chuỗi cung ứng toàn cầu, khiến các doanh nghiệp, kể cả lớn hay nhỏ đều rơi vào tình trạng khó khăn trong việc mô hình hóa hoạt động đầu tư, kinh doanh và đánh giá rủi ro.
 
 
Các doanh nghiệp Việt Nam đang có cơ hội rất lớn để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
 
Mặc dù, Việt Nam là một trong những quốc gia đã thực hiện tốt việc kiểm soát đại dịch toàn cầu, ổn định kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Nhưng, có lẽ cái chúng ta cần trong thời điểm hiện tại là việc chuyển hướng từ giai đoạn “ứng phó khủng hoảng sang thời điểm phục hồi”.
 
Trong bối cảnh này, vấn đề quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp Việt là làm thế nào để có thể chuẩn bị tốt hơn cho chuỗi cung ứng toàn cầu mới. Trong đó, sự dịch chuyển của chuỗi cung ứng toàn cầu là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Đây được xem là chiếc chìa khóa để có thể vượt qua thách thức và nắm bắt cơ hội đầu tư, sản xuất và kinh doanh trong tương lai.
 
Có lẽ, khi các công ty toàn cầu điều chỉnh các chiến lược sản xuất và chuỗi cung ứng của họ để xây dựng khả năng phục hồi, các doanh nghiệp Việt đang có cơ hội rất lớn để tham gia vào chuỗi cung ứng và trở thành trung tâm sản xuất toàn cầu. 
 
Theo một khảo sát về nguồn cung ứng toàn cầu của QIMA, nhà cung cấp dịch vụ kiểm soát chất lượng, hợp tác với các thương hiệu, nhà bán lẻ và nhà nhập khẩu quốc tế, cho thấy: 43% số người được hỏi tại Mỹ, mô tả Việt Nam nằm trong số ba khu vực địa lý mua hàng hàng đầu của họ vào đầu năm 2021 và khoảng một phần ba số người mua trên toàn cầu.
 
Sự gần gũi của Việt Nam với Trung Quốc, cũng như các nước khác trong khu vực Đông Nam Á, cũng là một trong những lý do khiến chúng ta duy trì khả năng cạnh tranh và kết nối với các chuỗi cung ứng toàn cầu. 
 
Đồng thời, với chi phí lao động thấp, sự ổn định chính trị, các chính sách thân thiện với nhà đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng và những nỗ lực được nhà nước hậu thuẫn để thúc đẩy các công ty khởi nghiệp công nghệ khiến Việt Nam dần trở thành điểm đến cho các nhà đầu tư.
 
Thêm vào đó, là thành viên của hiệp định thương mại tự do (FTA), Việt Nam đang trở thành một trong những nền kinh tế mở nhất. Cùng với đó là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam và EU (EVFTA), vừa được phê chuẩn là những yếu tố thúc đẩy bổ sung cho các doanh nghiệp toàn cầu tìm cách chuyển dịch chuỗi cung ứng của mình.
 
Nói tóm lại, Việt Nam đang sở hữu đầy đủ những lợi thế cạnh tranh, ưu thế về kết nối quốc tế, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội trong vận hội mới.
 
Những thách thức, khó khăn
 
Mặc dù cơ hội đang mở ra rất lớn cho các doanh nghiệp Việt, tuy nhiên, theo số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), sự tham gia của các doanh nghiệp Việt trong chuỗi giá trị toàn cầu là rất thấp so với các nền kinh tế có quy mô tương tự trong khu vực Đông Nam Á.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt đang gặp nhiều khó khăn và thử thách.
 
Cụ thể, mới chỉ có 36% doanh nghiệp Việt tham gia vào mạng lưới sản xuất, bao gồm cả việc xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp, trong khi, tỷ lệ này ở Malaysia, Thái Lan là 60%.
 
Thực trạng trên cho thấy, các doanh nghiệp Việt đang bị phân tán và ít khả năng được hưởng lợi từ hiệu ứng lan tỏa vốn đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và nâng cao năng lực sản xuất.
 
Theo VCCI, nguyên nhân chính của thực trạng trên là do Việt Nam chỉ có khoảng 4% doanh nghiệp có đủ năng lực cạnh tranh, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Các doanh nghiệp trong nước hầu như đứng ngoài chuỗi giá trị toàn cầu mà các doanh nghiệp FDI đang sản xuất tại Việt Nam.
 
Có lẽ vấn đề đầu tiên và lớn nhất là việc các doanh nghiệp Việt thường không được đánh giá cao trong việc tuân thủ những quy định quốc tế. Trong khi những công ty đa quốc gia thường có những yêu cầu khắt khe theo chuẩn quốc tế khi đầu tư và hợp tác kinh doanh.
 
Đây được coi là một yêu cầu khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt trong giai đoạn hiện tại, nhưng nếu không vượt qua thách thức này để phát triển một cách bền vững theo xu hướng thị trường thì doanh nghiệp Việt khó có thể chen chân vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
 
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt còn có một số điểm yếu cố hữu, đó là việc chúng ta thiếu sự chuyên nghiệp ở một số vấn đề hay thời điểm. Nhiều doanh nghiệp Việt khi thành công ở một lĩnh vực nào đó, lại không đầu tư tiếp để phát triển, mà chuyển sang những ngành nghề, lĩnh vực khác, nên nhiều khi bị phân bổ nguồn lực và thiếu tập trung.
 
Có lẽ, thời điểm hiện tại được coi là giai đoạn đòi hỏi các doanh nghiệp phải tư duy và quản trị doanh nghiệp lại, bởi sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu đang đặt ra nhiều thách thức, và nếu không vượt qua thì cơ hội khó đến tay các doanh nghiệp Việt.

Nguồn: Diễn Đàn Doanh Nghiệp