Phép thử A.I trong y tế

Ứng phó với COVID-19 mang tới động lực cho nhiều phát kiến, nhất là trí tuệ nhân tạo, xuất hiện trong lĩnh vực y khoa.

Một trong số phát kiến trong lĩnh vực y khoa là ứng dụng trí tuệ nhân tạo (A.I) vào việc chẩn đoán sớm dấu hiệu của nguy cơ truyền nhiễm.Ảnh: pewtrusts.org.

Một trong số phát kiến trong lĩnh vực y khoa là ứng dụng trí tuệ nhân tạo (A.I) vào việc chẩn đoán sớm dấu hiệu của nguy cơ truyền nhiễm, góp phần cải thiệu hiệu quả chống dịch và giảm áp lực cho con người. Hãng công nghệ BKAV, chẳng hạn, cho biết đang nghiên cứu thiết bị xét nghiệm COVID-19 qua nước muối sinh lý chỉ mất 10 giây để có kết quả.
 
Những người cần lấy mẫu xét nghiệm súc miệng, sau đó cho vào ống nghiệm, bấm nút để phân tích bằng A.I. Thiết bị dùng một dải tần số ánh sáng chiếu vào ống nghiệm chứa nước muối súc miệng, sau đó thu bằng cảm biến đầu ra. Dựa trên các tần số bị hấp thụ ở mức độ nhiều hay ít, A.I sẽ đưa ra kết quả có nguy cơ dương tính với COVID-19 hay không.
 
Sản phẩm hiện đang thử nghiệm tại Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương với kết quả ban đầu khá khả quan. Tuy vẫn còn 10% sai số nhưng thiết bị này có tiềm năng ứng dụng rất lớn nhờ tốc độ sàng lọc nhanh chóng, đơn giản và tiết kiệm hơn.
 
Câu chuyện tương tự diễn ra ở Singapore. Chính quyền nước này mới đây triển khai áp dụng thiết bị phát hiện virus COVID-19 qua hơi thở với kết quả chính xác trong vòng một phút tại sân bay. Công nghệ này hoạt động giống như một bài kiểm tra nồng độ cồn mà cảnh sát giao thông hay dùng.

Có thể còn một số hạn chế về tỉ lệ sai số, nhưng tiềm năng ứng dụng A.I trong y khoa trong tương lai là vô cùng lớn. Ảnh: euronews.com.
 
Có thể còn một số hạn chế về tỉ lệ sai số, nhưng tiềm năng ứng dụng A.I trong y khoa trong tương lai là vô cùng lớn, thậm chí có thể so sánh với một cuộc cách mạng mới. Đại dịch COVID-19 thực tế bộc lộ những cạm bẫy của quy trình NCE (thực thể hóa học mới) truyền thống, vốn cần nhiều năm, tốn kém nhiều tiền và có tỉ lệ thất bại lớn.
 
Bị thúc ép bởi nhu cầu tìm kiếm các phương pháp điều trị và vaccine nhanh chóng, nhiều hãng dược phẩm và công nghệ sinh học đã sẵn sàng khám phá cách mà A.I có thể tăng tốc độ phát triển và giảm thiểu rủi co cho các loại thuốc, vaccine chống Corona. “Chúng tôi sử dụng công nghệ A.I để thiết kế các phân tử tốt nhất có khả năng pháttriển hoàn hảo cho sự phát triển lâm sàng”, Andrew Hopkins, Giám đốc Điều hành Exscientia, nhận định. Startup của Anh này vừa huy động được 435 triệu euro vòng Series D để tài trợ một nỗ lực ứng dụng A.I vào quy trình phát triển dược phẩm.
 
Google gần đây tích cực hơn trong lĩnh vực A.I y tế. Hãng đang xây dựng một hệ sinh thái nghiên cứu lâm sàng thông qua ứng dụng Google Health Studies dành cho Android và đang phát triển sản phẩm thông qua công ty con về khoa học đời sống là Verily Life Sciences. Thông qua các sản phẩm này, Google có thể cung cấp các luồng dữ liệu sức khỏe của bệnh nhân cho những nhà nghiên cứu y tế.
 
Cho đến nay, các tập đoàn dược phẩm như Novartis, Sanofi, Otsuka và Pfizer đã hợp tác với Verily Life Sciences trong nhiều cuộc thử nghiệm lâm sàng hiệu quả. Sáng kiến này còn thu hút các trường đại học như Stanford Medicine, Duke University School of Medicine và Hiệp hội Tim mạch Mỹ tham gia.
 
Thị trường A.I cho y tế đang bước vào giai đoạn phát triển bùng nổ. Ở Mỹ, hãng nghiên cứu Accenture ước tính 10 ứng dụng A.I hàng đầu trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe có thể giúp ngành chăm sóc sức khỏe Mỹ tiết kiệm 150 tỉ USD mỗi năm vào năm 2026. Bản thân thị trường chăm sóc sức khỏe ứng dụng A.I được dự đoán trị giá 6,6 tỉ USD vào năm 2021, tương đương với tốc độ tăng trưởng kép hằng năm 40% tính từ năm 2014.

 
Tại Việt Nam, theo Tiến sĩ Trần Thị Mai Oanh, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, hiện A.I được ứng dụng ở 4 lĩnh vực: chẩn đoán bệnh, điều trị, quản lý thông tin theo dõi sức khỏe và đào tạo. Vì vậy, có thể thấy, các ứng dụng A.I có vùng áp dụng rất rộng, nhất là trong hỗ trợ, chăm sóc toàn diện sức khỏe người dân thông qua hàng loạt ưu điểm: cải thiện tốc độ và độ chính xác của chẩn đoán và tầm soát bệnh tật; hỗ trợ chăm sóc lâm sàng; tăng cường nghiên cứu sức khỏe và phát triển thuốc; giám sát dịch bệnh, ứng phó với ổ dịch và quản lý hệ thống y tế…
 
Chẳng hạn, theo Phó Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc Bệnh viên Phổi Trung ương, công nghệ sẽ hỗ trợ đắc lực cho ngành y đạt được mục tiêu đề ra như chấm dứt bệnh lao vào năm 2030 và chẩn đoán, điều trị hiệu quả các bệnh khác, trong đó có COVID-19. Trong lĩnh vực điều trị lao, phổi, nếu áp dụng các công nghệ hiện đại, chúng ta có thể giảm tới 70% trong vòng 4 năm can thiệp. A.I sẽ hỗ trợ trong sàng lọc X-quang lao phổi, dự báo dịch tễ học không gian, hỗ trợ người bệnh tuân thủ điều trị, hỗ trợ quản lý tác dụng phụ của thuốc…
Tại Việt Nam, A.I cũng đang được triển khai mạnh mẽ trong lĩnh vực y tế. Hệ thống VinDr do Viện Nghiên cứu Dữ liệu lớn (VinBigdata) phát triển, ứng dụng A.I trong chẩn đoán hình ảnh về bệnh lý phổi trên ảnh X-quang lồng ngực và chẩn đoán ung thư vú trên ảnh X-quang tuyến vú, đã được thử nghiệm tại 3 bệnh viện lớn của Việt Nam là Bệnh viện 108, Đại học Y và Vinmec…
 
Tuy nhiên, báo cáo mới đây của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng cảnh báo việc đánh giá quá cao lợi ích của A.I đối với y tế khi không lường trước các thách thức và rủi ro, bao gồm việc thu thập và sử dụng dữ liệu y tế một cách phi đạo đức; rủi ro của A.I đối với sự an toàn của bệnh nhân, an ninh mạng… Tổng Giám đốc WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus nêu rõ: “Giống như tất cả các công nghệ mới, A.I có tiềm năng to lớn trong việc cải thiện sức khỏe của hàng triệu người trên thế giới, nhưng A.I cũng có thể bị lạm dụng và gây hại”.
 
Nguồn: NCĐT

 

FSB công bố tổ chức hội thảo song phương về “Mindfulness” cùng diễn giả danh tiếng trên thế giới, lần đầu tiên tại Việt Nam

Covid-19 được coi là một phép thử cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp hiện nay, vai trò và giá trị của họ được thể hiện rõ nhất nói lên họ là ai, và họ sẽ làm gì để dẫn dắt tổ chức vượt qua giai đoạn khủng hoảng này.

Theo Nghiên cứu chuyên sâu của tổ chức Deloitte Global nhận định “Các nhà lãnh đạo nhận thấy rõ sự thay đổi nghiêm trọng của xã hội và thị trường do dịch Covid  kèm theo những bất ổn to lớn, dẫn đến sự lung lay và hoang mang trong đội ngũ nhân viên ở tất cả các cấp độ. Giữa tình trạng này, việc quan trọng nhất đối với các nhà lãnh đạo là nhận được sự tuân phục “followership” tối đa từ nhân viên của mình. Điều này không có cách nào khác là phải được nuôi dưỡng và củng cố bằng cách xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm ở mức độ cao nhất”. Điều này đồng thời đã khẳng định rằng “Tín nhiệm là chất xúc tác cho giai đoạn phục hồi từ khủng hoảng hiện tại”.
 
Để có được “tín nhiệm” từ nhân viên của mình, nhà lãnh đạo không chỉ cần có tài năng, mà còn cần cả “bản sắc”. Bản sắc của một nhà lãnh đạo có thể hiểu là “phong cách lãnh đạo” của người đó, là đặc điểm phân biệt họ giữa hàng ngàn người khác, là sức hút, sự hấp dẫn của riêng họ…Rất nhiều nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới như Steve Jobs, Jack Ma, Donal Trumps…đều có những đặc điểm, phong cách độc nhất, không thể lẫn lộn…

Thấu hiểu tầm quan trọng của việc “Xây dựng phong cách lãnh đạo” trong hành trình dẫn dắt đội nhóm, doanh nghiệp trong hành trình vươn tới thành công, vượt qua giai đoạn phục hồi từ khủng hoảng hiện tại… Viện Quản trị & Công nghệ FSB, Đại học FPT cùng The Mindful Leader, Úc phối hợp triển khai webinar “THE SELF-AUTHORED LEADER”. Chuyên gia bậc thầy và hàng đầu thế giới trong lĩnh vực “Mindfulness”- ông Michael Bunting sẽ là diễn giả dẫn dắt chương trình lần này.
 

 
Michael Bunting là chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực phát triển năng lực lãnh đạo, tư duy lãnh đạo, văn hoá doanh nghiệp, mindfulness. Ông đã có hơn 25 năm nghiên cứu và thực hành về Mindfulness; 20 năm đào tạo và huấn luyện, tư vấn cho các doanh nghiệp và chính phủ về lãnh đạo. Ông là Tác giả của 2 cuốn sách về “Mindfulness” bán chạy nhất thế giới, đó là: (1) The mindful leader (Lãnh đạo tỉnh thức) và (2) A Practical Guide to Mindful Meditation

Michael Bunting còn Giảng dạy môn Mindfulness cho chương trình Exec MBA – ĐH Sydney (Chương trình MBA được xếp hạng #1 trong Bảng xếp hạng các chương trình Executive MBA tốt nhất toàn cầu). Đồng thời, vị diễn giả người Úc cũng là nhà sáng lập công ty tư vấn lãnh đạo nổi tiếng tại Úc – WorkSmart Australia, được chứng nhận bởi tập đoàn B-Corp dành cho các doanh nghiệp đạt được tiêu chuẩn cao nhất để cân bằng mục đích vì xã hội và vì lợi nhuận.

Michael Bunting cũng là nhà phát triển “Awakened mind” – ứng dụng di động về phát triển tư duy và sức khỏe tinh thần.
 
Người tham dự hội thảo sẽ nhận được những quyền lợi như:
Được tham dự buổi chia sẻ và tương tác trực tiếp với diễn giả Michael Bunting
Gặp gỡ và trao đổi với các doanh nhân và nhà lãnh đạo doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam
Được kết nối với chuyên gia Michael Bunting và đặc quyền thành viên Premium sử dụng app Awakened Mind trong 90 ngày
Kết nối trực tiếp với diễn giả trên LinkedIn
Cơ hội khai mở tư duy lãnh đạo cần thiết nhất hiện nay để dẫn dắt doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Có cơ hội đi sâu vào lĩnh vực xu hướng nhất hiện nay về Mindfulness
Các quà tặng hiện vật có giá trị

 
THÔNG TIN CHƯƠNG TRÌNH: Webinar “THE SELF-AUTHORED LEADER” CÙNG DIỄN GIẢ MICHAEL BUNTING
 
Thời gian: 09:00 ngày 15/08/2021
Tham dự trực tuyến trên ứng dụng Zoom Webinar
Phí tham dự:
5.000.000 VND
Liên hệ:
Hotline:
093 2939981/ Email: mba.hn@fsb.edu.vn
Hotline: 098 8104442/ Email: fipc@fsb.edu.vn
 
“THE SELF-AUTHORED LEADER” là Hội thảo trực tuyến song phương đầu tiên tại Việt Nam hiện nay về “Mindfulness”. Với tư cách là đơn vị thành viên của Tập đoàn FPT – Tập đoàn công nghệ hàng đầu Việt Nam, Viện Quản trị & Công nghệ FSB tự hào mang đến cho người tham dự hội thảo những trải nghiệm “số” thời thượng, đẳng cấp và hoàn toàn khác biệt cùng đường truyền Internet mạnh mẽ.
 
HÃY LIÊN TỤC CẬP NHẬT THÔNG TIN CHƯƠNG TRÌNH QUA NHỮNG BÀI VIẾT TIẾP THEO, TRÊN CÁC KÊNH TRUYỀN THÔNG CỦA FSB

Đằng sau những chuyến bay vào vũ trụ của các tỷ phú: Không đơn thuần dừng lại ở việc du hành mà là cả một nền kinh tế mới!

Những gì diễn ra trong tương lai sẽ là một trong những câu chuyện mang tính kinh tế và quan trọng nhất của thập kỷ tới, dù Elon Musk có thực sự định cư trên sao Hỏa hay không.

Richard Branson, Jeff Bezos và Elon Musk đều là những tỷ phú có ý định hoặc đã bay lên vũ trụ. Trước đây, một số người giàu cũng thực hiện những chuyến đi tương tự, nhưng Branson và Bezos lại không chỉ trả tiền vé mà họ còn đầu tư cả con tàu. Trong tương lai, những người như vậy – nếu đủ giàu có, họ sẽ không còn phải phụ thuộc vào những con tàu không gian của chính phủ khi muốn rời khỏi Trái Đất.
 
Một số người đã dành nhiều lời khen về khía cạnh kỹ thuật và sự toàn vẹn khi chở một nhóm người lên rìa vũ trụ sau đó quay trở lại trái đất an toàn, hoặc điều kỳ diệu khi vượt qua ranh giới của những điều khả thi.
 
Tuy nhiên, phần lớn sự kiện này lại cho thấy rằng các tỷ phú thay vì tập trung nguồn lực vào hỗ trợ những khó khăn do đại dịch gây ra, hoặc biến đổi khí hậu hay bất kỳ cuộc khủng hoảng này, thì họ lại chi tiền cho những thứ khác. Trái Đất đã không còn nguyên vẹn. Có lẽ rằng, những tỷ phú này nên cất con tàu vũ trụ trong vài thập kỷ và tập trung vào một số mối quan tâm trước mắt nhiều hơn.
 
Một vài thập kỷ trước, khi các công ty hàng không vũ trụ của 3 vị tỷ phú này mới chỉ bắt đầu hoạt động, nhiều người nói rằng mục tiêu của họ là điều viển vông. Hiện tại, phe chỉ trích mới chính là bên có tầm nhìn quá hạn hẹp, dù họ là những người hoạch định chính sách. Song, đằng sau những chuyến bay của các tỷ phú là cả một lĩnh vực hàng không vũ trụ rộng lớn.
 
Sau nhiều thập kỷ, quỹ đạo Trái Đất và những điểm xa hơn đã được thương mại hóa với tốc độ đáng kinh ngạc nhờ sự phát triển của các công ty tư nhân. Việc Branson và Bezos sẵn sàng bay lên vũ trụ bằng những con tàu của riêng mình không chỉ là sự chứng thực rằng tàu của họ đã đủ an toàn để chính họ thử nghiệm và mở rộng hoạt động kinh doanh.
 
Ngay cả khi Bezos đã quyết định rút khỏi sự kiện này, những người khác vẫn tiếp tục bay vào không gian và có thể lên tới hàng nghìn người và hàng chục nghìn loại máy móc được thiết kế để phục vụ cho những chuyến bay đó. Những gì diễn ra trong tương lai sẽ là một trong những câu chuyện mang tính kinh tế và quan trọng nhất của thập kỷ tới, dù Elon Musk có thực sự định cư trên sao Hỏa hay không.
 
Dưới đây là một vài trong số những câu chuyện ít được chú ý về ngành hàng không vũ trụ tư nhân. Đầu tiên là đợt niêm yết của một công ty có tên Astra Space – được các nhà đầu tư mạo hiểm hậu thuẫn. Họ đã chế tạo một tên lửa bay theo quỹ đạo chỉ trong vài năm. Mục tiêu là đưa vệ tinh bay vào quỹ đạo mỗi ngày.
 
Ngay sau khi Astra niêm yết với định giá 2,1 tỷ USD, nhà sản xuất vệ tinh Planet Labs – công ty sử dụng hàng trăm "con mắt" trên bầu trời để chụp ảnh Trái Đất mỗi ngày, cũng công bố kế hoạch tương tự với giá trị 2,8 tỷ USD. Trong khi đó, Firefly Aerospace sở hữu một tên lửa ở California, đang chờ đợi khu vực này giải phóng mặt bằng để "cất cánh".
 
Ngoài ra, OneWeb và SpaceX cũng thường xuyên phóng vệ tinh quanh Trái Đất để phục vụ mục đích truy cập internet tốc độ cao. Rocket Lab đến từ New Zealand – quốc gia trước đây không có tàu vũ trụ, đang lên kế hoạch cho các sứ mệnh lên mặt trăng và sao Kim.
 
Thời gian gần đây, cơn sốt SPAC mang lại cơ hội đặc biệt lớn cho lĩnh vực hàng không vũ trụ tư nhân, bao gồm các công ty trên. Việc tiếp cận thị trường vốn dễ dàng hơn đã giúp họ thu hút hàng tỷ USD từ nhà đầu tư vào một ngành từng phụ thuộc vào chính phủ. Do đó, số lượng vệ tinh quay quanh Trái đất được dự kiến sẽ tăng từ khoảng 3.400 đến 50.000-100.000 trong thập kỷ tới.
 
Dù con số ước tính ở trên có thể thay đổi một chút, nhưng thông điệp chính ở đây vẫn không thay đổi: ngành hàng không vũ trụ tư nhân đang nở rộ. Cuộc đua bay lên vũ trụ trong tháng này trong mới chỉ là khởi đầu cho sự thay đổi lớn hơn nhiều.
 
Để thấy được ngành hàng không vũ trụ tư nhân đã đi được bao xa, hãy nhìn vào Decker Eveleth – người mới chỉ vài tuần trước là sinh viên năm cuối tại Đại học Reed. Tháng trước, trong khi đang tìm kiếm hình ảnh vệ tinh về kho dự trữ vũ khí và cơ sở hạ tầng quân sự khác, anh phát hiện ra 100 hầm chứa tên lửa đạn đạo trên một vùng sa mạc miền bắc Trung Quốc.
 
Ngoài ra, khách hàng còn sử dụng mạng lưới vệ tinh để theo dõi sức khỏe cây trồng, lượng khí thải của nhà máy và tình trạng của những khu rừng nhiệt đới. Các dịch vụ internet vệ tinh của SpaceX và OneWeb có tiềm năng phục vụ hàng tỷ người không thể truy cập băng thông rộng theo cách khác. Do đó, có thể thấy, các tỷ phú như Branson hay Bezos chỉ là một phần tương đối nhỏ trong bức tranh toàn cảnh về ngành hàng không vũ trụ tư nhân.
 
Đương nhiên, những yếu tố rủi ro đến từ các công ty này vẫn tồn tại, ví dụ như lợi nhuận chưa được đảm bảo. Dù những doanh nghiệp như SpaceX, Rocket Lab và Planet được định giá hàng tỷ USD, nhưng họ vẫn chưa có khả năng sinh lời nhờ vào các dự án ngoài không gian.
 
Tham khảo Bloomberg (DN & TT)

FSB và Đại học Michigan Hoa Kỳ trao chứng chỉ CXM cho hơn 20 học viên trên cả nước

Ngày 11/7/2021, Viện Quản trị & Công nghệ FSB, Đại học FPT phối hợp cùng Đại học Michigan (MSU), Hoa Kỳ đã tổ chức Lễ Bế giảng chương trình đào tạo Quản trị Trải nghiệm khách hàng (CXM).
 

 
Khoá học đầu tiên về Quản trị Trải nghiệm khách hàng (CXM) do FSB & MSU giảng dạy đã thu hút hơn 20 học viên trên cả nước theo học. Đặc biệt, học viên của chương trình đều là những nhà quản trị doanh nghiệp, những chuyên viên hoạt động trong lĩnh vực Thiết kế trải nghiệm khách hàng trong nhiều năm.
 
Chương trình CXM@MSU có tổng cộng 8 buổi học. Tại buổi cuối, các học viên có một bài tập thuyết trình với chủ đề : “Hành trình trải nghiệm khách hàng thực tế tại doanh nghiệp của bạn”. Mỗi cá nhân/nhóm có tối đa 10 phút thuyết trình và 5 phút Q&A.

 
Giám đốc chương trình CXM@MSU, giảng viên – TS. Tom Dewitt cũng là người trực tiếp hỏi đáp, chấm điểm cho bài tập trên.

 
100% học viên khoá 01 đã hoàn thành bài tập lớn này và được cấp chứng chỉ CXM bởi Broad Đại học Michigan – Trường kinh doanh nằm trong top 40 trường tốt nhất Hoa Kỳ (theo US News). Đây cũng là ngôi trường có thứ hạng 105 trong bảng xếp hạng top 1000 trường đại học hàng đầu thế giới của Times Higher Education (THE).
 

100% học viên được cấp chứng chỉ CXM bởi Broad Đại học Michigan - Trường kinh doanh nằm trong top 40 trường tốt nhất Hoa Kỳ
100% học viên được cấp chứng chỉ CXM bởi Broad Đại học Michigan – Trường kinh doanh nằm trong top 40 trường tốt nhất Hoa Kỳ

 
Cùng ngày, Lễ tổng kết và trao chứng chỉ hoàn thành khóa học với sự hiện diện của Đại diện MSU : TS.Tom Dewitt, TS. Hang Nguyen… cùng Đại diện FSB: Viện trưởng – TS. Nguyễn Việt Thắng, TS. Phan Minh Đức và toàn thể học viên khu vực Hà Nội. Các học viên những khu vực còn lại, do địa lý và tình hình diễn biến của dịch covid-19, đã tham gia chương trình theo hình thức “trực tuyến”, thông qua ứng dụng Zoom Meeting. Được biết kinh phí để một học viên tham gia toàn khóa 8 buổi học trực tuyến là 55 triệu đồng – một mức học phí không hề nhỏ chỉ dành cho những nhà quản trị khát khao tiếp nhận những nền tảng tri thức mới trên Thế giới.

Viện trưởng Nguyễn Việt Thắng theo dõi sát sao trong suốt quá trình triển khai cho đến Lễ bế giảng CXM#01

Bên cạnh hoạt động trao chứng chỉ hoàn thành khoá học, tại buổi lễ, FSB đã đồng thời vinh danh các học viên tiêu biểu nhất, có thể kể đến:
Danh hiệu Best Participant: Học viên Nguyễn Phú An
Danh hiệu Golden Bee: Học viên Hồ Bích Trâm
Danh hiệu Super Star: Học viên Nguyễn Học Viện

 
HV Nguyễn Phú An nhận Danh hiệu Best Participant

 
Học viên Huỳnh Khải Hưng chia sẻ: “Cảm ơn một khoá học rất tuyệt vời, bổ ích, vượt trên cả sự mong đợi. Không chỉ đem lại kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, nó còn giúp tôi và đồng đội hiểu rõ hơn về con đường mình chọn, vững tin hơn về các mục tiêu đặt ra cho chặng đường dài sắp tới: Thử thách nhưng sẽ đáng giá! Nó mang lại cho tôi, với tư cách là một CEO cách tiếp cận “business” từ gốc rễ của vấn đề, của quy luật cung cầu. Chân thành cảm ơn các giáo sư từ Đại học Michigan cùng giảng viên và ban tổ chức khoá học FSB”

HV Huỳnh Khải Hưng: “Cảm ơn một khoá học rất tuyệt vời, bổ ích, vượt trên cả sự mong đợi. Không chỉ đem lại kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, nó còn giúp tôi và đồng đội hiểu rõ hơn về con đường mình chọn…”

 
Còn học viên Hồ Bích Trâm, chủ nhân giải thưởng Golden Bee cho biết: “Thật xúc động và tự hào vì đã hoàn thành khoá học Quản trị trải nghiệm khách hàng của Đại học Michigan và Viện Quản trị & công nghệ FSB tổ chức. Trân trọng cảm ơn hội đồng giảng viên đã chia sẻ những kiến thức mới mẻ, kinh nghiệm thực tiễn cùng các nghiên cứu khoa học đã áp dụng cho các doanh nghiệp Mĩ và nhiều nước trên thế giới. Cảm ơn FSB đã tạo điều kiện học tập online với những trải nghiệm vô cùng tuyệt vời để các học viên dù ở bất cứ nơi đâu trên cả nước đều có thể học tập và chia sẻ trong một môi trường kết nối không giới hạn. Hành trình trải nghiệm mới bắt đầu nhưng đầy khoảnh khắc tuyệt vời WOW”.
 

HV Hồ Bích Trâm: “Cảm ơn FSB đã tạo điều kiện học tập online với những trải nghiệm vô cùng tuyệt vời để các học viên dù ở bất cứ nơi đâu trên cả nước đều có thể học tập và chia sẻ trong một môi trường kết nối không giới hạn.”

 
Học viên Nguyễn Học Viện, sau khi nhận danh hiệu Super Star của khoá hào hứng chia sẻ với các bạn bè của mình: “Đi học CXM còn được nhận “phiếu bé ngoan””
 

HV Nguyễn Học Viện – Chủ nhân danh hiệu Super Star

 
Khoá đầu tiên chương trình đào tạo “Quản trị trải nghiệm khách hàng” diễn ra trong bối cảnh làn sóng covid-19 bùng phát trở lại…nhưng giảng viên, học viên đã vượt qua và khắc phục tất cả khó khăn. Bằng yếu tố công nghệ tối tân cùng cơ sở vật chất hiện đại và đội ngũ giảng viên nhiều kinh nghiệm, FSB tự hào dành tặng cho học viên của mình những trải nghiệm học tập tuyệt vời nhất hiện nay.
 

 
Viện Quản trị & Công nghệ FSB xin được chúc mừng tất cả các học viên khoá CXM#01. Nhà trường cùng mạng lưới cựu học viên – FSB Alumni luôn đồng hành cùng các anh chị!
 

 

Thế giới cần bao nhiêu tiền để kiểm soát được COVID-19?

Dựa trên các sáng kiến ​​hiện có, Ruchir Agarwal và Gita Gopinath là các chuyên gia của IMF đã đề xuất một Kế hoạch hành động ở cấp quốc gia và đa phương để khẩn trương cùng hợp tác trong cuộc chiến kiểm soát và đánh bại đại dịch.
 
 
Thế giới đang thực hiện những bước đi khẩn cấp để ngăn chặn số người tử vong đang gia tăng và áp lực phục hồi kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra. Ngày càng có sự đồng thuận cao là chính sách phòng chống đại dịch cũng là chính sách kinh tế bởi vì không thể có được sự phục hồi kinh tế bền vững nào mà không đi kèm sự kết thúc của cuộc khủng hoảng y tế. Một trong những mối quan tâm nhất hiện nay là thực tế cuộc chiến chống lại đại dịch đang làm trầm trọng thêm sự chênh lệch và bất bình đẳng trong quá trình phục hồi giữa các nước. Đại dịch có thể chấm dứt được sớm và kinh tế toàn cầu có thể sớm phục hồi hay không sẽ phụ thuộc vào sự phối hợp hành động mang tính toàn cầu nhiều hơn nữa.
 
Dựa trên các sáng kiến hiện có, Ruchir Agarwal và Gita Gopinath là các chuyên gia của IMF đã đề xuất một Kế hoạch hành động ở cấp quốc gia và đa phương để khẩn trương cùng hợp tác trong cuộc chiến kiểm soát và đánh bại đại dịch. Kế hoạch này nhằm mục tiêu: (1) tiêm chủng cho ít nhất 40% dân số các quốc gia vào cuối năm 2021 và ít nhất 60% vào nửa đầu năm 2022, (2) Bảo hiểm rủi ro trong quá trình sản xuất vắc xin, và (3) đảm bảo xét nghiệm rộng rãi và truy vết, duy trì dự trữ đầy đủ thuốc điều trị liệu và thực thi các biện pháp y tế công cộng ở những nơi có độ che phủ vắc xin thấp. Những nội dung chính của kế hoạch này bao gồm:
 
Đạt được các chỉ tiêu tiêm chủng
 
1. Cung cấp thêm khoản tài trợ trả trước cho COVAX ít nhất 4 tỷ đô la để tăng mức độ bao phủ vắc xin của tổ chức này, với mục tiêu từ 20% đến 30% cho 91 quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Lượng cầu vắc xin này giúp chốt đơn đặt hàng của tổ chức này và kích hoạt công suất vắc xin chưa sử dụng.
 
2. Đảm bảo các luồng nguyên liệu và vắc xin thành phẩm lưu thông tự do xuyên biên giới. Những hạn chế về lưu thông hiện tại đang là nguyên nhân gây phương hại cho khả năng tiếp cận vắc xin của hàng tỷ người ở các nước đang phát triển.
 
3. Tặng vắc xin thừa: dự kiến là ít nhất khoảng 1 tỷ liều vắc xin có thể được tặng vào năm 2021, ngay cả khi các quốc gia "thừa" vắc xin này ưu tiên tiêm chủng cho người dân nước họ. Các khoản đóng góp, bao gồm cả chi phí giao hàng, nên được thực hiện thông qua COVAX để vắc xin được chia sẻ công bằng và trên cơ sở các nguyên tắc sức khỏe cộng đồng.
 
Bảo hiểm rủi ro sản xuất vắc xin
 
4. Đầu tư rủi ro để đa dạng hóa và tăng năng lực sản xuất vắc xin lên 1 tỷ liều vào đầu năm 2022 để xử lý các rủi ro sản xuất vắc xin, bao gồm cả rủi ro từ các biến thể [8 tỷ đô la].
 
5. Mở rộng quy mô giám sát bộ gen và giám sát chuỗi cung ứng, có hệ thống dự phòng cụ thể, có kế hoạch xử lý các tình huống đột biến hoặc các cú sốc đối với chuỗi cung ứng. Hoạt động này cần sự tham gia của các tổ chức đa phương, các nhà phát triển và sản xuất vắc xin, và chính phủ các nước [3 tỷ đô la].
 
Chi phí giai đoạn hiện tại khi nguồn cung vắc xin bị hạn chế
 
6. Đảm bảo xét nghiệm rộng rãi, đủ liệu pháp điều trị và các biện pháp y tế công cộng và chuẩn bị triển khai vắc xin [30 tỷ đô la].
 
7. Khẩn trương đánh giá và thực hiện (nếu được phê duyệt) các chiến lược giãn liều để mở rộng hiệu quả cung cấp [2 tỷ đô la].
 
8. Ngoài ra là các biện pháp cần thiết bổ sung chiếm 3 tỷ đô la.

Nguồn: "A proposal to end the Covid-19 pandemic" by Ruchir Agarwal và Gita Gopinath, IMF, tháng 5, 2021
 
Như vậy, ước tính chi phí của kế hoạch này vào khoảng 50 tỷ đô la. Có điểm cần lưu ý trong kế hoạch này là không phải tất cả mọi khoản liệt kê trong các hoạt động nêu trên đều là tốn kém. Nếu các nước thu nhập cao tặng chỉ một nửa số vắc xin thừa mà họ có khả năng tích lũy trong năm nay, chưa dùng đến cho các nước đang phát triển thì có thể đạt được mục tiêu tiêm chủng cho gần 40% dân số thế giới vào cuối năm 2021. Về nguồn tài chính, trong tổng số 50 tỷ đô la chi phí của kế hoạch này, có khoản tài trợ không hoàn lại ít nhất 35 tỷ đô la từ các nhà tài trợ và phần còn lại cần có từ chính phủ các nước với khả năng hỗ trợ bằng nguồn vốn ưu đãi từ các tổ chức song phương và đa phương.
 
Các điều kiện tiên quyết của việc thực hiện thành công kế hoạch này là các khoản tài trợ cần được ứng trước, vắc xin tài trợ được chuyển giao ngay và thực hiện bảo hiểm cho sản xuất vắc xin. Các cam kết về các nguồn tài chính cần thiết phải có sẵn ngay. Trong trường hợp không có các hành động khẩn cấp, nhiều nền kinh tế mới nổi và đang phát triển có thể phải đợi đến cuối năm 2022 hoặc muộn hơn để kiểm soát đại dịch, điều đó sẽ là quá muộn không chỉ cho những quốc gia mà còn cho cả thế giới. 
 
Nếu không có cam kết chắc chắn về việc mua vắc xin, các nhà sản xuất sẽ ngần ngại trong việc giải quyết các điểm nghẽn trong chuỗi cung ứng. Nếu các nước nghèo không biết khi nào vắc xin sẽ đến tay, họ sẽ khó chuẩn bị cho việc triển khai thành công. Và việc tiêm phòng chậm sẽ khiến các biến thể mới có nhiều khả năng xuất hiện hơn. Hiện tại, một số dự báo về triển vọng tiêm chủng cho thấy bức tranh rất bất bình đẳng vào năm 2022, điều này gây ra những rủi ro nghiêm trọng cho thế giới. Chúng ta cần phải sát cánh bên nhau, vì "đại dịch sẽ không thể được coi là kết thúc ở đâu đó cho đến khi nó kết thúc ở khắp mọi nơi trên thế giới".
 
Trên phương diện lợi ích kinh tế, tài trợ cho kế hoạch này được coi là khoản đầu tư công mang lại lợi nhuận cao nhất từ trước đến nay. Chi phí ước tính là khoảng 50 tỷ đô la nhưng lợi ích mang lại do nền kinh tế thế giới phục hồi sớm sẽ vào khoảng 9000 tỷ đô la từ nay đến năm 2025, vượt xa so với chi phí. Và 9000 tỷ đô la này được chia thành 60%-40% giữa các thị trường mới nổi, các nước đang phát triển và các nền kinh tế phát triển. Ngoài ra, các nền kinh tế phát triển có thể đạt được khoảng 1000 tỷ đô la thu nhập từ thuế bổ sung, điều đó càng khẳng định thêm rằng kế hoạch này là một ví dụ về đầu tư công mang lại lợi ích cao nhất.
Nguồn: Trí thức trẻ