Viet Nam’s economy is projected to maintain its resilience through 2025 and 2026, although momentum may slow in the near term due to increasing tariff pressures.
The Asian Development Outlook (ADO) July 2025.
In its Asian Development Outlook (ADO) July 2025, released on July 23, the Asian Development Bank revised down its growth forecasts for developing Asia and the Pacific, including Viet Nam. The country’s GDP growth is now expected to reach 6.3 percent in 2025 and 6.0 percent in 2026, down from the bank’s earlier projections of 6.6 percent and 6.5 percent, respectively.
ADB: Viet Nam poised for breakthroughs in green growth and digitalizationViet Nam seeks ADB support for large-scale infrastructure projectsFDI inflows to Viet Nam to remain robust in 2025: ADB Country DirectorInflation is forecast to ease to 3.9 percent in 2025 and 3.8 percent in 2026.
The ADB also warned of downside risks arising from a volatile global trade environment and rising U.S. import tariffs, which could adversely affect Viet Nam’s export performance and investment inflows.
In a separate projection, the World Bank estimated that Viet Nam’s economy will grow by 6.8 percent in 2025, moderating to 6.5 percent in 2026, supported by robust export activity, public investment, and a recovery in the real estate sector.
Similarly, the OECD forecast GDP growth of 6.2 percent in 2025 and 6.0 percent in 2026, highlighting continued strength in domestic consumption and public investment, while noting the economy’s exposure to external trade risks./.
Kinh tế tư nhân đã trải qua một hành trình đầy biến động, từ chỗ bị hạn chế đến khi được khẳng định là động lực quan trọng của nền kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập, việc nhận diện và tháo gỡ các “điểm nghẽn” để khu vực này bứt phá là vấn đề cấp thiết.
Quá trình phát triển của kinh tế tư nhân Việt Nam thể hiện rõ ràng qua các giai đoạn.
Những giai đoạn phát triển kinh tế tư nhân GS, TS. Ngô Thắng Lợi – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân – cho rằng, quá trình phát triển của kinh tế tư nhân Việt Nam đã được phác họa một cách rõ ràng, từ những thành tựu nổi bật, hạn chế còn tồn tại đến những giải pháp đột phá.
Trước đổi mới năm 1986, kinh tế tư nhân gần như không có không gian để phát triển.
Giai đoạn thứ hai, “Khởi động (1986 -1999)”, bắt đầu với Quyết định 27 của Hội đồng Bộ trưởng năm 1988, kinh tế tư nhân chính thức được công nhận. Các luật như Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 đã tạo hành lang pháp lý cho hàng chục nghìn doanh nghiệp ra đời.
Giai đoạn ba “Cất cánh (2000 – 2014)” chứng kiến sự hoạt động mạnh mẽ hơn với các Luật Doanh nghiệp 1999 và 2005 cùng Luật Đầu tư 2005 ra đời.
Giai đoạn bốn “Tăng tốc” (từ 2014 trở đi) đánh dấu việc kinh tế tư nhân được khẳng định vị trí động lực phát triển, với số lượng doanh nghiệp vượt mốc 900 nghìn và hàng triệu hộ kinh doanh.
Cuối cùng, giai đoạn năm “Bước ngoặt mới” đã khẳng định kinh tế tư nhân là động lực chính cho phát triển kinh tế quốc gia, thể hiện qua các nghị quyết quan trọng như Nghị quyết 57, 59, 66 và 68 trong các năm 2024-2025. Điều đó cho thấy sự chuyển dịch tư duy từ “bổ sung” sang “trung tâm” trong thiết kế chính sách quốc gia .
Tốc độ tăng bình quân của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) so với doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo tỷ lệ %.
Nhìn lại mốc phát triển kinh tế tư nhân vượt bậc, ông Lợi cho biết, nếu xem xét quy mô nền kinh tế ở góc độ gia tăng nguồn lực, bình quân giai đoạn 2011-2023, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam có tốc độ tăng trưởng vượt trội so với các khu vực kinh tế khác về số lượng doanh nghiệp (bình quân năm đạt 14,7%, từ 2011 đến 2023, tăng 2,5 lần), quy mô vốn đầu tư (bình quân đạt 25,3%, từ 2011 đến 2023, tăng 4 lần) và lực lượng lao động (8%, từ 2011 đến 2023 tăng 1,5 lần).
Với tốc độ tăng trưởng quy mô nguồn lực và doanh nghiệp nhanh, đến năm 2023, khu vực tư nhân chiếm 53,4% tổng vốn đầu tư xã hội, 82% lao động hoạt động trong nền kinh tế, 38,6 % tổng lợi nhuận trước thuế của toàn bộ doanh nghiệp, 51% tổng thu nhập tạo ra cho người lao động trong doanh nghiệp, đóng góp trên 42,3% tổng thu ngân sách nhà nước.
Theo ông Lợi, nếu xét trên khía cạnh tăng trưởng GDP, giai đoạn 2011-2023 khu vực kinh tế tư nhân đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 6,3%/năm. Con số này cao hơn mức trung bình của toàn nền kinh tế (đạt bình quân/năm 5,48%) và là thành tố góp phần lớn nhất (bình quân năm khoảng 50%, năm 2023 là 57% vào mức tăng trưởng của GDP nền kinh tế, khu vực kinh tế nhà nước 17%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) 20%, còn lại là đóng góp của thuế. Năm 2023, khu vực kinh tế tư nhân (bao gồm cả hộ kinh doanh) đã đóng góp 43% tổng GDP toàn nền kinh tế.
Trong giai đoạn 2011-2023, số lượng doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn và đạt hiệu quả kinh doanh cao có sự gia tăng đáng kể. Tính đến năm 2023, có 315 doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân thuộc danh sách 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam. Trong nội bộ khu vực kinh tế tư nhân, có 500 doanh nghiệp lớn nhất (VPE500) chỉ chiếm 0,075% số lượng doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân nhưng đã đóng góp 12% lao động, chiếm 28% tổng tài sản và đóng góp 18,4% doanh thu của các doanh nghiệp tư nhân trên cả nước.
Số lượng doanh nghiệp tư nhân trong TOP 50 VNR qua các năm (số liệu theo bảng công bố từ https://vnr500.com.vn/). Đồ họa: Lộc Liên.
Những “hành trang” của kinh tế tư nhân cho đến nay đã chứng minh được vị thế của mình. Thứ nhất, sự phát triển vượt trội về tốc độ tăng bình quân vốn đầu tư, số lượng lao động và số lượng doanh nghiệp. Thứ hai, khu vực này đã có đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế quốc gia, tạo ra tới 85% tổng số việc làm, sở hữu 50% tổng vốn, đóng góp 35% thu ngân sách và 43% vào GDP .
Điều này chứng tỏ kinh tế tư nhân là “xương sống” của nền kinh tế, tạo ra hàng chục triệu việc làm và nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế – xã hội.
“Phá rào” cho kinh tế tư nhân Trao đổi với PV Tiền Phong , TS. Hà Huy Ngọc – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách, chiến lược kinh tế địa phương và lãnh thổ, Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới – cho rằng, sau 80 năm thành lập nước Việt Nam đã có hơn 930.000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 14.400 hợp tác xã và hơn 5 triệu hộ kinh doanh. Năm 2024, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 50,4% GDP, tạo ra khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động.
Nhiều doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn tại Việt Nam hiện nay. Ảnh: Lộc Liên.
Một lực lượng doanh nghiệp tư nhân dân có quy lớn, đủ tầm để dẫn dắt sự phát triển của đất nước, đủ năng lực về quy mô vốn, trình độ công nghệ và quản trị doanh nghiệp hiện đại, có thương hiệu tại thị trường khu vực và thế giới, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế như: Vingroup, SunGroup, Thaco, Hòa Phát, TH, T&T, KN Holdings, Geleximco, Minh Phú, Masan, Sovico, TH True Milk, Cơ điện lạnh…
Động lực quan trọng của nền kinh tế TS. Hà Huy Ngọc phân tích, kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, quan điểm của Đảng ta về khu vực kinh tế tư nhân luôn nhất quán và xuyên suốt: Từ chỗ không được công nhận đến công nhận nhưng chưa coi trọng, sau đó là được xác định là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, nhất là cho tăng trưởng và phát triển bền vững đất nước. Quá trình đổi mới nhận thức là một quá trình kéo dài, nhiều thập kỷ và nó được ví như là một cuộc cách mạng .
Văn kiện Đại hội VI năm 1986 viết: “Sử dụng kinh tế tư bản tư nhân (tư sản nhỏ) trong một số lĩnh vực, ngành, nghề”. Tuy nhiên, văn kiện Đại hội VII năm 1991 đã nêu: “Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm”. Sau đó, văn kiện Đại hội VIII năm 1996 chỉ rõ: “Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước”. Tại văn kiện Đại hội IX năm 2001 nhấn mạnh rằng: “Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm”.
Văn kiện Đại hội X năm 2006 đã có một bước tiến mạnh mẽ về quan điểm, nhận thức khi nhấn mạnh: “Xóa bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”. Văn kiện Đại hội XI năm 2011 nêu rõ: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế”.
Sau đó, các văn kiện Đại hội XII năm 2016 và Đại hội XIII năm 2021 tiếp tục nhấn mạnh rằng: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Hành trình của 40 năm đổi mới gắn liền với những chủ trương, quan điểm của Đảng về kinh tế tư nhân.
Văn kiện các đại hội của Đảng, nhất là Nghị quyết số 10-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (2017) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (2020) và gần đây nhất là Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XIII (2023) về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới.
Đến nay, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã chính thức khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Theo số liệu thống kê sơ bộ Cục Hải quan vừa công bố, trong nửa đầu tháng 8, có tới 4 nhóm hàng đạt trên 1 tỷ USD, gồm: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, điện thoại và linh kiện, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, cùng dệt may.
Xuất khẩu cà phê tăng mạnh đạt 6,2 tỷ USD tính từ đầu năm đến ngày 15/8.
Điện tử và máy móc là “đầu tàu” tăng trưởng
Theo Cục Hải quan, từ đầu năm đến hết ngày 15/8, kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 282,6 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm ngoái, tương đương tăng thêm gần 37 tỷ USD. Cùng với nhập khẩu, tổng kim ngạch hai chiều đạt 555,2 tỷ USD, tăng 16,6%, đưa cán cân thương mại thặng dư hơn 10 tỷ USD. Đây là mức thặng dư quan trọng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu phục hồi chưa đồng đều.
Đóng góp cho xuất khẩu của cả nước, nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tiếp tục dẫn đầu với trị giá gần 4,6 tỷ USD trong nửa đầu tháng 8, nâng kim ngạch của nhóm này từ đầu năm đến ngày 15/8 đạt 61,3 tỷ USD, tăng 42,6%, tương ứng tăng thêm 18,3 tỷ USD. Đây chính là động lực tăng trưởng mạnh mẽ nhất, phản ánh xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu vào Việt Nam.
Nhóm sản phẩm máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng cũng đạt kết quả ấn tượng khi đạt 34,6 tỷ USD, tăng 14,9%, tương ứng tăng 4,4 tỷ USD. Sự tăng trưởng ổn định của hai ngành hàng này đang giúp Việt Nam khẳng định vị thế trong chuỗi sản xuất công nghệ toàn cầu, nhất là khi nhiều tập đoàn lớn tiếp tục mở rộng nhà máy tại các địa phương như Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái Nguyên.
Trong khi đó, điện thoại và linh kiện, nhóm hàng tỷ USD truyền thống đạt gần 35 tỷ USD, tăng nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái.
Không chỉ nhóm công nghiệp, các mặt hàng nông sản chủ lực cũng bứt phá nhờ giá thế giới duy trì ở mức cao. Cà phê là điểm sáng khi đạt 6,2 tỷ USD tính đến giữa tháng 8, tăng tới 62,8% so với cùng kỳ năm ngoái, tương đương tăng thêm 2,4 tỷ USD. Giá cà phê thế giới tăng kỷ lục đã giúp ngành hàng này trở thành mặt hàng gây bất ngờ trong xuất khẩu nông sản năm nay.
Gạo tiếp tục giữ vị trí quan trọng với kim ngạch vượt 3 tỷ USD, khối lượng xuất khẩu đạt 5,8 triệu tấn và giá bình quân hơn 512 USD/tấn – mức giá cao, phản ánh lợi thế cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường. Bên cạnh đó, hạt tiêu cũng ghi dấu khi kim ngạch vượt 1 tỷ USD, tăng 28,4% dù lượng xuất khẩu giảm, cho thấy giá trị gia tăng từ thị trường tiêu dùng đang chuyển biến tích cực.
Ngoài ra, trong nửa đầu tháng 8, xuất khẩu dệt may đạt tới 1,8 tỷ USD, nâng kim ngạch nhóm hàng này từ đầu năm đến giữa tháng 8 đạt 24,4 tỷ USD, tăng hơn 10% so với cùng kỳ năm ngoái.
Doanh nghiệp FDI còn chiếm tỷ trọng lớn
Trao đổi với PV Tiền Phong , chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh đánh giá sự tăng trưởng mạnh của nhóm điện tử, máy móc cùng nông sản tỷ USD là tín hiệu đáng mừng, giúp củng cố nền tảng xuất khẩu. Tuy nhiên, việc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn đóng vai trò chủ lực khi chiếm tới 74,3% tổng kim ngạch xuất khẩu, cho thấy sự phụ thuộc lớn của Việt Nam vào các doanh nghiệp, tập đoàn FDI; đặt ra yêu cầu năng lực tự chủ của doanh nghiệp trong nước.
“Tình hình thế giới còn tiềm ẩn nhiều bất định, từ nhu cầu tiêu dùng tại Mỹ và EU cho đến chính sách thương mại mới, đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục đa dạng hóa thị trường và nâng chuẩn chất lượng hàng hóa. Đặc biệt, chính sách thuế quan của Mỹ đặt ra sự tranh mới giữa hàng hoá các nước, nên hơn lúc nào doanh nghiệp Việt cần củng cố năng lực sản xuất của mình để giảm thiểu những rủi ro, tác động”, ông Doanh nói.
Nhận định tình hình chính trị, kinh tế thế giới từ nay đến cuối năm tiếp tục diễn biến phức tạp và khó lường, Bộ Công Thương cho biết, để góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8,3 đến 8,5% trong năm 2025, bộ sẽ tiếp tục thực hiện tốt việc kết nối giúp các doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng của các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp lớn toàn cầu, tạo thị trường cho các ngành công nghiệp phát triển.
Bộ Công Thương sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp, hiệp hội, ngành hàng khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà nước ta là thành viên; đồng thời đẩy nhanh tiến độ đàm phán nâng cấp các FTA hiện có và ký kết các FTA mới với các đối tác tiềm năng nhằm đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa sản phẩm và chuỗi cung ứng.
Cuộc đua trên thị trường khách hàng trung thành tại Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới, khi ưu thế thuộc về các doanh nghiệp sẵn sàng xây dựng hệ sinh thái mở.
Thị trường khách hàng thân thiết (loyalty) của Việt Nam sẽ sớm cán mốc tỷ USD. Ảnh: DN
Thị trường mới mà cũ Kinh tế số phát triển cũng là lúc khái niệm về lòng trung thành của khách hàng tại Việt Nam đang được định giá lại. Nó không còn đơn thuần là những tấm thẻ thành viên hay chương trình giảm giá định kỳ, mà đã trở thành một thị trường tiềm năng.
Theo báo cáo từ Research and Market năm 2024, thị trường khách hàng thân thiết (loyalty) của Việt Nam ước tính đạt 542,4 triệu USD vào năm 2025 và có thể tăng trưởng lên 971,2 triệu USD vào năm 2029, với tốc độ tăng trưởng 18,2% mỗi năm.
Những con số trên cho thấy việc đầu tư vào giữ chân khách hàng không còn là một lựa chọn, mà là một chiến lược sống còn với doanh nghiệp, nơi chi phí để thu hút một khách hàng mới luôn cao hơn nhiều so với việc giữ chân một khách hàng hiện hữu.
Tuy nhiên, đằng sau tiềm năng khổng lồ là những thách thức không hề nhỏ, tạo ra một nghịch lý lớn cho các doanh nghiệp. Báo cáo “Vietnam Loyalty Market Outlook to 2030” của Ken Research đã chỉ rõ những rào cản cố hữu.
Đầu tiên là sự phân mảnh nền tảng. Mỗi thương hiệu, từ chuỗi cà phê, siêu thị đến hãng thời trang, đều cố gắng xây dựng một hệ thống tích điểm của riêng mình. Điều này dẫn đến tình trạng người tiêu dùng phải quản lý hàng chục ứng dụng và loại điểm thưởng khác nhau, gây ra sự phiền toái và làm giảm giá trị thực tế của điểm thưởng.
Thách thức thứ hai là chi phí vận hành và xây dựng hệ thống. Để có một chương trình loyalty đủ hấp dẫn, doanh nghiệp phải đầu tư lớn vào công nghệ, nhân sự và quan trọng nhất là một kho quà tặng đa dạng.
Đây là một gánh nặng tài chính đáng kể, đặc biệt với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), khiến họ yếu thế trong cuộc đua giữ chân khách hàng so với các tập đoàn lớn.
Cuối cùng, những lo ngại về quyền riêng tư dữ liệu theo các quy định ngày càng chặt chẽ và hạn chế về cơ sở hạ tầng ở các khu vực ngoài đô thị lớn cũng là những yếu tố cản trở việc triển khai các chương trình loyalty một cách đồng bộ và hiệu quả.
Bức tranh chung cho thấy một thị trường màu mỡ nhưng đầy rẫy chướng ngại vật, đòi hỏi một lời giải đột phá hơn là cách tiếp cận truyền thống.
Cách tiếp cận mới cho mô hình khách hàng trung thành Để giải quyết bài toán phức tạp trên, thị trường đang chứng kiến sự chuyển dịch từ mô hình ứng dụng khép kín sang các “hệ sinh thái mở” và liên minh chiến lược.
Thay vì cạnh tranh đơn độc, các doanh nghiệp bắt đầu hợp tác để tạo ra một sân chơi chung, nơi điểm thưởng của khách hàng có thể được liên thông, có giá trị quy đổi rộng khắp. Xu hướng này không chỉ giúp tối ưu chi phí mà còn nâng cao đáng kể trải nghiệm của người dùng cuối.
Một ví dụ điển hình cho sự chuyển dịch này là mối quan hệ hợp tác chiến lược giữa LynkiD, một nền tảng loyalty mở, và Got It, một trong những nền tảng quà tặng số hàng đầu tại Việt Nam. Sự kết hợp này không phải là một phép cộng đơn thuần, mà là một giải pháp cộng hưởng nhằm tháo gỡ trực tiếp những nút thắt của thị trường.
LynkiD hoạt động như một nền tảng trung gian, cho phép các doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau kết nối chương trình khách hàng thân thiết của họ vào một mạng lưới chung.
Thông qua LynkiD, doanh nghiệp có thể phát hành, quản lý và liên kết điểm thưởng. Trong khi đó, Got It đóng vai trò là nhà cung cấp kho quà tặng khổng lồ, với mạng lưới hơn 300 thương hiệu phổ biến và 24.000 điểm chấp nhận thanh toán trên toàn quốc.
Sự hợp tác này tạo ra một vòng tuần hoàn giá trị. Đối với người tiêu dùng, trải nghiệm trở nên liền mạch và quyền lợi được gia tăng. Họ có thể tích điểm ở một thương hiệu nhưng lại sử dụng điểm đó để đổi voucher điện tử của Got It và sử dụng ở hàng trăm thương hiệu khác.
Đối với doanh nghiệp, lợi ích còn rõ ràng hơn, khi không cần phải đầu tư nguồn lực khổng lồ để tự xây dựng một kho quà tặng phức tạp.
Thay vào đó, họ có thể ngay lập tức truy cập vào hệ sinh thái quà tặng đa dạng của Got It, từ các voucher F&B, bán lẻ, làm đẹp cho đến các dịch vụ cao cấp như đặt sân golf, nhà hàng sang trọng. Điều này giúp tối ưu hóa chi phí, giảm gánh nặng vận hành và cho phép họ tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi.
Bà Trần Tố Uyên, Tổng giám đốc LynkiD, nhận định: “Hợp tác này mang lại giá trị thiết thực hơn cho người dùng và lợi thế cạnh tranh rõ rệt cho doanh nghiệp. Việc liên thông kho quà giữa hai nền tảng giúp khách hàng tiếp cận và mở rộng trải nghiệm tiêu dùng đa dạng, liền mạch và tiện lợi hơn bao giờ hết”.
Tương tự, bà Nguyễn Hải Minh, Giám đốc điều hành DayOne (đơn vị chủ quản Got It), chia sẻ rằng sự tương đồng về giá trị cốt lõi là nền tảng cho sự hợp tác bền vững. Mô hình này là một minh chứng cho thấy tương lai của ngành loyalty không nằm ở sự cạnh tranh riêng lẻ, mà nằm ở khả năng hợp tác để tạo ra một giá trị chung lớn hơn.
Ngày 09/08/2025, Viện Quản trị & Công nghệ FSB – Trường Đại học FPT đã chính thức khai giảng khóa học đầu tiên trong chương trình hợp tác đào tạo với Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB). Đây là dấu mốc quan trọng mở đầu chuỗi hoạt động đào tạo nhằm nâng cao năng lực quản trị và vận hành trong kỷ nguyên chuyển đổi số.
Chương trình “AI-Driven Transformation”
Khóa học tập trung vào chủ đề “AI-Driven Transformation”, hướng đến mục tiêu giúp cán bộ SHB: Hiểu và ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong quản trị và vận hành, nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý trong bối cảnh số hóa và Tối ưu hiệu quả hoạt động, gia tăng năng lực cạnh tranh của ngân hàng trong thời đại AI.
Open Ceremony khóa học “AI-Driven Transformation”
Trong khuôn khổ hợp tác, chương trình bao gồm 05 lớp học, dành cho cán bộ SHB trên toàn quốc, được tổ chức dưới hai hình thức offline và online để đảm bảo tính linh hoạt, thuận tiện cho học viên.
FSB triển khai đào tạo AI cho đội ngũ cán bộ SHB
Hợp tác chiến lược FSB – SHB
Sự hợp tác lần này không chỉ khẳng định cam kết của SHB trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, mà còn thể hiện vai trò tiên phong của FSB trong việc cung cấp các chương trình đào tạo AI thực chiến cho doanh nghiệp.
Việc khai giảng khóa học “AI-Driven Transformation” mở ra cơ hội để cán bộ SHB tiếp cận tri thức tiên tiến, đồng thời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hành trình chuyển đổi số và nâng cao năng lực quản trị của ngân hàng.