Thế giới cần bao nhiêu tiền để kiểm soát được COVID-19?

Dựa trên các sáng kiến ​​hiện có, Ruchir Agarwal và Gita Gopinath là các chuyên gia của IMF đã đề xuất một Kế hoạch hành động ở cấp quốc gia và đa phương để khẩn trương cùng hợp tác trong cuộc chiến kiểm soát và đánh bại đại dịch.
 
 
Thế giới đang thực hiện những bước đi khẩn cấp để ngăn chặn số người tử vong đang gia tăng và áp lực phục hồi kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra. Ngày càng có sự đồng thuận cao là chính sách phòng chống đại dịch cũng là chính sách kinh tế bởi vì không thể có được sự phục hồi kinh tế bền vững nào mà không đi kèm sự kết thúc của cuộc khủng hoảng y tế. Một trong những mối quan tâm nhất hiện nay là thực tế cuộc chiến chống lại đại dịch đang làm trầm trọng thêm sự chênh lệch và bất bình đẳng trong quá trình phục hồi giữa các nước. Đại dịch có thể chấm dứt được sớm và kinh tế toàn cầu có thể sớm phục hồi hay không sẽ phụ thuộc vào sự phối hợp hành động mang tính toàn cầu nhiều hơn nữa.
 
Dựa trên các sáng kiến hiện có, Ruchir Agarwal và Gita Gopinath là các chuyên gia của IMF đã đề xuất một Kế hoạch hành động ở cấp quốc gia và đa phương để khẩn trương cùng hợp tác trong cuộc chiến kiểm soát và đánh bại đại dịch. Kế hoạch này nhằm mục tiêu: (1) tiêm chủng cho ít nhất 40% dân số các quốc gia vào cuối năm 2021 và ít nhất 60% vào nửa đầu năm 2022, (2) Bảo hiểm rủi ro trong quá trình sản xuất vắc xin, và (3) đảm bảo xét nghiệm rộng rãi và truy vết, duy trì dự trữ đầy đủ thuốc điều trị liệu và thực thi các biện pháp y tế công cộng ở những nơi có độ che phủ vắc xin thấp. Những nội dung chính của kế hoạch này bao gồm:
 
Đạt được các chỉ tiêu tiêm chủng
 
1. Cung cấp thêm khoản tài trợ trả trước cho COVAX ít nhất 4 tỷ đô la để tăng mức độ bao phủ vắc xin của tổ chức này, với mục tiêu từ 20% đến 30% cho 91 quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Lượng cầu vắc xin này giúp chốt đơn đặt hàng của tổ chức này và kích hoạt công suất vắc xin chưa sử dụng.
 
2. Đảm bảo các luồng nguyên liệu và vắc xin thành phẩm lưu thông tự do xuyên biên giới. Những hạn chế về lưu thông hiện tại đang là nguyên nhân gây phương hại cho khả năng tiếp cận vắc xin của hàng tỷ người ở các nước đang phát triển.
 
3. Tặng vắc xin thừa: dự kiến là ít nhất khoảng 1 tỷ liều vắc xin có thể được tặng vào năm 2021, ngay cả khi các quốc gia "thừa" vắc xin này ưu tiên tiêm chủng cho người dân nước họ. Các khoản đóng góp, bao gồm cả chi phí giao hàng, nên được thực hiện thông qua COVAX để vắc xin được chia sẻ công bằng và trên cơ sở các nguyên tắc sức khỏe cộng đồng.
 
Bảo hiểm rủi ro sản xuất vắc xin
 
4. Đầu tư rủi ro để đa dạng hóa và tăng năng lực sản xuất vắc xin lên 1 tỷ liều vào đầu năm 2022 để xử lý các rủi ro sản xuất vắc xin, bao gồm cả rủi ro từ các biến thể [8 tỷ đô la].
 
5. Mở rộng quy mô giám sát bộ gen và giám sát chuỗi cung ứng, có hệ thống dự phòng cụ thể, có kế hoạch xử lý các tình huống đột biến hoặc các cú sốc đối với chuỗi cung ứng. Hoạt động này cần sự tham gia của các tổ chức đa phương, các nhà phát triển và sản xuất vắc xin, và chính phủ các nước [3 tỷ đô la].
 
Chi phí giai đoạn hiện tại khi nguồn cung vắc xin bị hạn chế
 
6. Đảm bảo xét nghiệm rộng rãi, đủ liệu pháp điều trị và các biện pháp y tế công cộng và chuẩn bị triển khai vắc xin [30 tỷ đô la].
 
7. Khẩn trương đánh giá và thực hiện (nếu được phê duyệt) các chiến lược giãn liều để mở rộng hiệu quả cung cấp [2 tỷ đô la].
 
8. Ngoài ra là các biện pháp cần thiết bổ sung chiếm 3 tỷ đô la.

Nguồn: "A proposal to end the Covid-19 pandemic" by Ruchir Agarwal và Gita Gopinath, IMF, tháng 5, 2021
 
Như vậy, ước tính chi phí của kế hoạch này vào khoảng 50 tỷ đô la. Có điểm cần lưu ý trong kế hoạch này là không phải tất cả mọi khoản liệt kê trong các hoạt động nêu trên đều là tốn kém. Nếu các nước thu nhập cao tặng chỉ một nửa số vắc xin thừa mà họ có khả năng tích lũy trong năm nay, chưa dùng đến cho các nước đang phát triển thì có thể đạt được mục tiêu tiêm chủng cho gần 40% dân số thế giới vào cuối năm 2021. Về nguồn tài chính, trong tổng số 50 tỷ đô la chi phí của kế hoạch này, có khoản tài trợ không hoàn lại ít nhất 35 tỷ đô la từ các nhà tài trợ và phần còn lại cần có từ chính phủ các nước với khả năng hỗ trợ bằng nguồn vốn ưu đãi từ các tổ chức song phương và đa phương.
 
Các điều kiện tiên quyết của việc thực hiện thành công kế hoạch này là các khoản tài trợ cần được ứng trước, vắc xin tài trợ được chuyển giao ngay và thực hiện bảo hiểm cho sản xuất vắc xin. Các cam kết về các nguồn tài chính cần thiết phải có sẵn ngay. Trong trường hợp không có các hành động khẩn cấp, nhiều nền kinh tế mới nổi và đang phát triển có thể phải đợi đến cuối năm 2022 hoặc muộn hơn để kiểm soát đại dịch, điều đó sẽ là quá muộn không chỉ cho những quốc gia mà còn cho cả thế giới. 
 
Nếu không có cam kết chắc chắn về việc mua vắc xin, các nhà sản xuất sẽ ngần ngại trong việc giải quyết các điểm nghẽn trong chuỗi cung ứng. Nếu các nước nghèo không biết khi nào vắc xin sẽ đến tay, họ sẽ khó chuẩn bị cho việc triển khai thành công. Và việc tiêm phòng chậm sẽ khiến các biến thể mới có nhiều khả năng xuất hiện hơn. Hiện tại, một số dự báo về triển vọng tiêm chủng cho thấy bức tranh rất bất bình đẳng vào năm 2022, điều này gây ra những rủi ro nghiêm trọng cho thế giới. Chúng ta cần phải sát cánh bên nhau, vì "đại dịch sẽ không thể được coi là kết thúc ở đâu đó cho đến khi nó kết thúc ở khắp mọi nơi trên thế giới".
 
Trên phương diện lợi ích kinh tế, tài trợ cho kế hoạch này được coi là khoản đầu tư công mang lại lợi nhuận cao nhất từ trước đến nay. Chi phí ước tính là khoảng 50 tỷ đô la nhưng lợi ích mang lại do nền kinh tế thế giới phục hồi sớm sẽ vào khoảng 9000 tỷ đô la từ nay đến năm 2025, vượt xa so với chi phí. Và 9000 tỷ đô la này được chia thành 60%-40% giữa các thị trường mới nổi, các nước đang phát triển và các nền kinh tế phát triển. Ngoài ra, các nền kinh tế phát triển có thể đạt được khoảng 1000 tỷ đô la thu nhập từ thuế bổ sung, điều đó càng khẳng định thêm rằng kế hoạch này là một ví dụ về đầu tư công mang lại lợi ích cao nhất.
Nguồn: Trí thức trẻ

Doanh nghiệp của các tỷ phú Việt đóng góp vào ngân sách ra sao?

Mỗi năm, các doanh nghiệp này đóng góp hàng nghìn tỷ đồng vào Ngân sách Nhà nước. Trong đó, Vingroup của tỷ phú Phạm Nhật Vượng và Thaco của tỷ phú Trần Bá Dương là có đóng góp lớn nhất qua các năm.

Vingroup
 
Trong năm 2020, tập đoàn của tỷ phú Phạm Nhật Vượng đã nộp tổng cộng 19.614 tỷ đồng vào ngân sách nhà nước. Trong đó, có xấp xỉ 9.397 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp, tăng gần 19% so với năm 2019. Giai đoạn 5 năm 2016-2020, Vingroup đã nộp tổng cộng 79.813 tỷ đồng vào ngân sách. Số đóng góp vào ngân sách của Vingroup liên tục tăng qua các năm, chỉ giảm nhẹ vào năm Covid-19 2020.
 
Năm nay, ông Phạm Nhật Vượng lần thứ 9 góp mặt trong danh sách tỷ phú USD của Forbes. Theo bảng xếp hạng thời gian thực của Forbes, ông Vượng đang là người giàu nhất Việt Nam với tài sản 8,3 tỷ USD, đứng thứ 321 thế giới. Ông lần đầu được Forbes vinh danh năm 2013, với 1,5 tỷ USD, đứng thứ 974.
 
Thaco
 
Năm 2020, tập đoàn của tỷ phú Trần Bá Dương đã nộp tổng cộng 18.716 tỷ đồng vào ngân sách nhà nước. Giai đoạn 5 năm 2016-2020, Thaco đã nộp tổng cộng 90.010 tỷ đồng vào ngân sách.
 
Ông Trần Bá Dương được đưa vào danh sách của Forbes từ năm 2018, hiện ông sở hữu tài sản 1,6 tỷ USD, xếp thứ 2061 thế giới.

Hòa Phát
 
Năm 2020, Hòa Phát của tỷ phú Trần Đình Long nộp 7.300 tỷ đồng vào ngân sách nhà nước. Trong đó, thuế thu nhập doanh nghiệp là 1.850,8 tỷ đồng. Giai đoạn 5 năm 2016-2020, Hòa Phát đã nộp tổng cộng 28.591 tỷ đồng vào ngân sách.
 
Ông Trần Đình Long hiện đang là tỷ phú giàu thứ hai Việt Nam. Hiện tại, tỷ phú thép sở hữu tài sản 3,4 tỷ USD, đứng thứ 954 thế giới.
 
Masan

Tập đoàn Masan đã đóng góp 2.825 nghìn tỷ vào ngân sách nhà nước trong năm 2020, thuế thu nhập doanh nghiệp là 929,8 tỷ đồng. Giai đoạn 5 năm 2016-2020, Masan đã nộp tổng cộng 8.541 tỷ đồng vào ngân sách.
 
Chủ tịch Masan Nguyễn Đăng Quang hiện đang đứng thứ 6 trong danh sách tỷ phú USD Việt Nam trên Forbes. Ông sở hữu tài sản 1,4 tỷ USD, đứng thứ 2208 thế giới. Ngoài ra, ông cũng là phó Chủ tịch Techcombank.
 
Techcombank
 
Techcombank nộp 4.087 tỷ đồng vào ngân sách trong năm 2020, trong đó, thuế thu nhập doanh nghiệp là 3.217,8 tỷ đồng. Giai đoạn 5 năm 2016-2020, Techcombank đã nộp tổng cộng 12.809 tỷ đồng vào ngân sách.
 
Ông Hồ Hùng Anh hiện đang đứng thứ tư trong danh sách tỷ phú USD Việt Nam, với khối tài sản 2 tỷ USD và đứng thứ 1677 thế giới. Ông Hồ Hùng Anh là Chủ tịch ngân hàng Techcombank, một trong số những ngân hàng thương mại cổ phần lớn của Việt Nam. 
 
Vietjet Air
 
Vietjet Air đã nộp 340 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2020. Con số này giảm mạnh so với năm 2019, do ngành hàng không nói chung bị ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19. Giai đoạn 5 năm 2015-2019, Vietjet Air đã nộp tổng cộng 25.115 tỷ đồng vào ngân sách.
 
HDbank
 
HDbank nộp 1.171 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020. Giai đoạn 5 năm 2015-2019, HDbank đã nộp tổng cộng 2.971 tỷ đồng vào ngân sách.
 
Bà Nguyễn Thị Phương Thảo là tỷ phú nữ duy nhất trong danh sách tỷ phú này, và đứng thứ ba với tài sản 2,5 tỷ USD, đứng thứ 1370 thế giới. Bà Thảo hiện giữ vai trò Phó Chủ tịch HDBank, Phó Chủ tịch và CEO hãng hàng không VietJet Air.

Nguồn: Cafef

Vaccine cho tăng trưởng

Cuộc chạy đua tiêm chủng vaccine là giải pháp tiên quyết cho động lực tăng trưởng những tháng cuối năm cũng như dài hạn.

Tốc độ phục hồi nền kinh tế sẽ phụ thuộc và có mối quan hệ chặt chẽ với tiến độ triển khai tiêm chủng vaccine.

Bài học của nhiều nước trên thế giới cho thấy, tốc độ phục hồi nền kinh tế sẽ phụ thuộc và có mối quan hệ chặt chẽ với tiến độ triển khai tiêm chủng vaccine. Việt Nam cũng tham gia cuộc đua tiêm chủng vaccine như giải pháp để tiếp tục duy trì tăng trưởng trong năm nay.
 
Tác động kinh tế của vaccine
 
Tổng thống Mỹ Joe Biden từng đưa ra thông điệp: “Lấy vaccine làm chìa khóa để mở cửa nền kinh tế” nhằm vực dậy nước Mỹ trong thảm họa dịch COVID-19. Thực tế, chỉ sau hơn 4 tháng triển khai, chương trình tiêm chủng với hơn 50% dân số được tiêm ít nhất một mũi vaccine đã đưa nước Mỹ trở lại trạng thái bình thường mới. Kết thúc quý I/2021, kinh tế Mỹ đã tăng trưởng 6,4% so với cùng kỳ năm ngoái, mức cao nhất kể từ năm 1984. Cũng nhờ kết quả này, mức dự báo tăng trưởng năm 2021 của Mỹ được nâng từ 3,4% lên 6,2%.
 
Kinh tế Mỹ là điển hình cho vai trò quan trọng của tiêm chủng vaccine để vượt qua những u ám mà đại dịch bao phủ toàn cầu từ đầu năm 2020. Cũng như Mỹ, nhiều nước sau khi triển khai tiêm vaccine đã dần gỡ bỏ lệnh phong tỏa, đưa kinh tế thế giới trở lại bình thường. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) lạc quan đưa ra dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới có thể đạt 6,4%, cao hơn mức 5,5% đưa ra hồi đầu năm và cao gần gấp đôi so với dự báo vào tháng 10.2020.
 
Một số nhà nghiên cứu cho biết tác động của tiêm chủng đối với tăng trưởng kinh tế được cải thiện trong khoảng thời gian 5 năm, mỗi năm giúp tăng trưởng kinh tế tăng thêm từ 0,3-0,5 điểm phần trăm. Tỉ lệ tiêm chủng trong dân số càng tăng thì nền kinh tế càng sớm trở lại trạng thái bình thường. Ngân hàng Goldman Sachs đã tính toán “Chỉ số hiệu quả lockdown” cho thấy sự hối hả và nhộn nhịp của xã hội quay trở lại với nhiều quốc gia có tỉ lệ tiêm chủng cao (xem biểu đồ 2).

Ở khu vực đồng euro, JPMorgan kỳ vọng việc tiêm chủng rộng rãi sẽ giúp tăng trưởng trong quý này lên hơn 7% với tốc độ hằng năm. Trong khi đó, là nơi xuất phát của đại dịch, nền kinh tế Trung Quốc, vốn tê liệt trong suốt năm 2020, cũng đang phục hồi thần kỳ. Ngoài tiến bộ nhanh chóng trong chương trình tiêm chủng, với khoảng 40% dân số được tiêm ít nhất một mũi, những chính sách kích thích kinh tế hiệu quả đã đưa nước này thoát khỏi giai đoạn khủng hoảng và về đích với tốc độ tăng trưởng ngoạn mục 18,3% trong quý I/2021, cao nhất kể từ năm 1992.
 
Tuy nhiên, khác với thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính năm 2008, sự phục hồi của kinh tế thế giới lần này lại không đồng đều, một phần là vì sự khác biệt trong tiến trình tiêm vaccine ngừa COVID-19 và quy mô các chính sách hỗ trợ kinh tế. Châu Phi, Mỹ Latinh và nhiều khu vực ở châu Á được dự báo sẽ vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn kinh tế do dịch bệnh bùng phát trong khi nguồn cung vaccine hạn chế.

Ông Bruce Kasman, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng JPMorgan Chase, nhận định: “Chưa từng thấy một sự chênh lệch nào lớn đến vậy trong suốt 20-25 năm qua giữa Mỹ cũng như những nước phát triển khác và các thị trường mới nổi”. Sự chênh lệch trong hồi phục kinh tế giữa các nước có thể là yếu tố cản trở kinh tế thế giới nói chung sớm đạt được mức như thời kỳ trước đại dịch.
 
Với tầm quan trọng của khoảng cách vaccine toàn cầu, cần đặt câu hỏi rằng khoảng cách này đang thu hẹp nhanh như thế nào? Theo Goldman Sachs, Nhật, Hàn Quốc, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ và Mexico, mỗi nước sẽ có ít nhất một mũi tiêm vaccine cho một nửa dân số vào tháng 8. Nam Phi và Ấn Độ sẽ không đạt được điểm chuẩn này cho đến tháng 12. Tuy nhiên, ở cả 2 quốc gia trên, nhiều người đã khỏi bệnh, mang lại cho họ khả năng miễn dịch tự nhiên ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, Cơ quan Thống kê Quốc gia Ấn Độ dự báo nền kinh tế nước này sẽ tăng trưởng âm 7,3% trong năm tài chính 2020-2021, mức tồi tệ nhất kể từ khi quốc gia này giành độc lập.
 
Biến thể virus và sự phục hồi không đồng đều
 
Dù có vaccine nhưng COVID-19 vẫn là nỗi ám ảnh toàn cầu với nhiều biến thể phức tạp. Loại virus nguy hiểm này có thể ghê gớm tới đâu? Cách đơn giản nhất để so sánh sức lan truyền sinh học thuần túy của virus là xem xét hệ số lây nhiễm cơ bản (R0). Đó là số lượng trung bình người bị nhiễm sẽ truyền virus cho người khác cứ như là không ai được miễn dịch và không ai thực hiện các biện pháp phòng ngừa bổ sung. Con số đó là khoảng 2,5 khi đại dịch bắt đầu ở Vũ Hán và có thể cao tới 8 đối với biến thể Delta.
 
Tiến sĩ Aris Katzourakis, người nghiên cứu sự tiến hóa của virus tại Đại học Oxford, cho biết: “Loại virus này đã khiến chúng tôi rất ngạc nhiên. Thực tế là nó đã xảy ra 2 lần trong 18 tháng, Alpha và Delta, mỗi dòng lây lan nhanh hơn 50%. Thật là thay đổi phi thường”. Ông dự báo bước tăng vọt hơn nữa trong việc lây lan trong vài năm tới. Nghĩa là con người sẽ tiếp tục cuộc đua phát triển những dòng vaccine mới trước các biến chủng của loại virus quái ác nhất trong lịch sử.
 
Cũng như vậy, kinh tế thế giới vẫn phải khắc phục sự phục hồi không đồng đều do có sự chênh lệch về phân bổ vaccine. Tăng trưởng mạnh mẽ của một số quốc gia đã tiêm chủng có thể tạo ra thêm nhiều vấn đề cho các khu vực khác trên thế giới. Ví dụ, sự bùng nổ của Mỹ đã đẩy giá tiêu dùng của chính nước này tăng 5% trong tháng 5 so với năm trước đó và cũng có thể gây thêm áp lực về giá ở những nơi khác. Lạm phát này có thể buộc các ngân hàng trung ương phải phản ứng.
 
Thổ Nhĩ Kỳ và Brazil đều thắt chặt chính sách tiền tệ trong những tháng gần đây, bất chấp đại dịch vẫn đang diễn ra. Ngày 11.6, Ngân hàng Trung ương của Nga đã tăng lãi suất lần thứ 3 kể từ tháng 3. Thống đốc Elvira Nabiullina đã trích dẫn cả tỉ lệ tiêm chủng và “chính sách tài chính và tiền tệ cực kỳ lỏng lẻo ở các nền kinh tế lớn” là những lý do đằng sau sự gia tăng lạm phát của Nga lên 6%.

Ngay cả lạm phát tạm thời cũng có thể gây xáo trộn thị trường tài chính, khiến các nhà đầu tư nghi ngờ cam kết của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) về nới lỏng tiền tệ. Điều đó có thể làm tăng phần bù rủi ro mà các thị trường mới nổi phải trả cho các khoản vay USD.
 
Lạm phát toàn cầu năm nay sẽ vẫn xa so với tỉ lệ 2 con số đã trải qua trong thời kỳ lạm phát đình trệ những năm 1970. Nhưng cũng giống như cuộc khủng hoảng dầu mỏ trước đây đã khiến các nhà hoạch định chính sách rơi vào tình thế khó xử, buộc họ phải tăng lãi suất khi kinh tế suy yếu, tình trạng thiếu vaccine trong năm nay có thể tạo ra sự khó chịu tương tự cho các nhà hoạch định chính sách. Hậu quả của việc tiêm chủng không đồng đều có thể là nguyên nhân khiến một số nước không được bảo vệ bằng vaccine tăng lãi suất hoặc co hẹp chính sách nới lỏng để ứng phó với lạm phát.
 
Vaccine chỉ là điều kiện cần
 
Mới đây, công bố về triển vọng kinh tế toàn cầu, World Bank đánh giá Việt Nam tiếp tục là một điểm sáng, tăng trưởng GDP của Việt Nam dự kiến đạt 6,6% trong năm 2021, là mức tăng trưởng cao nhất được dự báo cho các nước trong khu vực ASEAN. Nhưng đây là mức tăng trưởng rất thách thức khi dịch COVID-19 đã lan rộng ở Việt Nam với diễn biến phức tạp hơn.

Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) dự báo kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng ở mức 6,7% trong năm nay và 7% vào năm 2022. Tuy nhiên, Giám đốc ADB phụ trách Việt Nam Andrew Jeffries cũng cảnh báo: “Vẫn còn những nguy cơ đáng kể trong năm 2021 và năm tiếp theo, trong đó có sự xuất hiện các biến thể mới của virus SARS-CoV-2 và sự chậm trễ trong chương trình tiêm vaccine”.
 
Rõ ràng, đợt bùng phát dịch thứ 4 là rất lớn, với số ca mắc chiếm đến hơn 60% trong tổng cộng hơn 10.000 ca bệnh tính đến nay. Đây là đợt bùng phát lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt, gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống của nhân dân ở các trung tâm đô thị lớn và một số khu công nghiệp.
 
Trước thách thức này, Việt Nam buộc phải đẩy nhanh tốc độ tiêm vaccine phòng COVID-19, là một giải pháp có tính quyết định trong cuộc chiến chống virus, thay vì chỉ duy trì các biện pháp truy vết và giãn cách. Các khu công nghiệp phải đóng cửa, doanh nghiệp kiệt quệ, cùng những đường phố vắng vẻ vì lệnh giãn cách cho thấy vaccine mới mang tính quyết định quá trình phục hồi kinh tế một cách vững chắc, đồng thời sớm tận dụng được các cơ hội để duy trì và thúc đẩy những động lực tăng trưởng xuất khẩu và đầu tư khi các đối tác thương mại và đầu tư lớn của Việt Nam đang trên đà phục hồi mạnh mẽ.

Với sự chung tay của nhiều doanh nghiệp, người dân, Quỹ Vaccine phòng chống COVID-19 đã lên kế hoạch và đàm phán để có đủ lượng vaccine đạt tới miễn dịch cộng đồng (150 triệu liều). “Chiến dịch tiêm chủng vaccine phòng COVID-19 lần này có quy mô lớn nhất trong lịch sử tiêm chủng ở nước ta”, Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết. Sở Chỉ huy của chiến dịch tiêm chủng lần này đặt tại Bộ Quốc phòng do một Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân làm chỉ huy với mục tiêu cuối năm 2021, đầu năm 2022 đạt miễn dịch cộng đồng, tương đương 70% dân số được tiêm vaccine.
 
“Có vaccine đạt đến ngưỡng miễn dịch sẽ giúp chúng ta không còn lo tình trạng các đợt dịch tái diễn và đợt sau lại phức tạp, nguy hiểm hơn đợt trước như hiện nay. Vaccine sẽ giúp tạo ra một trạng thái bình thường mới bền vững, qua đó tạo điều kiện cần quan trọng để cho kinh tế phát triển, để các hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu dùng… thực sự phục hồi trở lại”, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế, nhận định.

Tuy nhiên, nhiều kịch bản về vaccine kém tích cực hơn cũng đã được đưa ra. Đó là ngay cả khi đủ vaccine đưa về với khối lượng lớn, việc triển khai hệ thống để tiêm cho hàng triệu người trong thời gian ngắn từ nay đến cuối năm là không hề đơn giản. Thậm chí, giả sử tiêm được đến mức 30-40% dân số trong năm nay thì vẫn chưa thể mở cửa hoàn toàn và tác động tích cực đến nền kinh tế vẫn chưa nhiều. “Phải tiêm được từ 50% dân số trở lên thì những tác động mới rõ nét hơn. Nhưng để đạt được như vậy, cần thời gian chứ không phải quá nhanh được”, Phó Giáo sư Vũ Sỹ Cường, chuyên gia tài chính công, nhận định.

Theo Tiến sĩ Lê Duy Bình, Giám đốc Điều hành Economica Vietnam, vaccine chỉ là điều kiện cần để duy trì tăng trưởng kinh tế. Bởi vì các dư địa về chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ năm nay đã bị thu hẹp rất nhiều. Về mặt tài khóa, ngân sách năm nay chắc chắn bị co hẹp đáng kể, trong khi đầu tư công năm nay theo kế hoạch chỉ có hơn 460.000 tỉ đồng, thấp hơn rất nhiều so với năm ngoái.
 
Trong khi đó, về chính sách tiền tệ, áp lực lạm phát đang tăng lên, dẫn đến khả năng hạ lãi suất ngày càng khó khăn. “Vấn đề chính hiện nay là làm sao để cứu được các doanh nghiệp đang lao đao vì ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, bởi 97% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Làm gì để vực dậy khu vực kinh tế tư nhân nhỏ lẻ này là vấn đề vô cùng cấp bách”, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh.

Dịch cúm chết người làm Việt Nam lỡ đà tăng trưởng của mô hình kinh tế phụ thuộc nhiều vào chi phí rẻ, thu hút đầu tư, đặc biệt thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư của khu vực tư nhân. Nếu có điều gì “tích cực” từ COVID-19 thì đó là cơ hội để Việt Nam nhanh chóng điều chỉnh tầm nhìn và chiến lược để thích ứng với nền kinh tế mới áp dụng triệt để robot, tự động hóa, số hóa… Bên cạnh đó là bài học không một quốc gia nào phát triển chỉ nhờ vào ngoại lực mà chính nội lực mới là then chốt. Cũng như việc tự tạo sức đề kháng cho mình trước mọi biến thể của virus hơn là chỉ trông chờ vào vaccine từ bên ngoài.

Nguồn: NCĐT

FSB Vinh danh Học viên xuất sắc tiêu biểu Kỳ Thu Đông 2020

Viện Quản trị & Công nghệ FSB, Đại học FPT đã tổng hợp kết quả học tập và tổ chức vinh danh Kỳ Thu Đông & toàn năm 2020, dành cho những học viên tiêu biểu của chương trình đào tạo Thạc sĩ trên cả nước.
 
 
Năm học 2020 là một năm xảy ra nhiều biến động bất ngờ bởi đại dịch Covid-19. Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp nhà nước, Ban giám hiệu FSB cùng các phòng ban…. đã kịp thời triển khai hình thức học tập “hybrid learning” nhằm đáp ứng yêu cầu việc dạy & học của giảng viên, học viên trên cả nước; cũng như đảm bảo tiến độ chương trình học được diễn ra đúng lộ trình. 
 
Trải qua quá trình xét duyệt công tâm, hơn 40 học viên có thành tích xuất sắc nhất trong học tập và hoạt động phong trào đã được tôn vinh, tuyên dương. Các giải thưởng có thể kể đến như: Sinh viên xuất sắc nhất năm học 2020, Học viên xuất sắc nhất kỳ, Học viên xuất sắc nhất lớp….(Danh sách khen thưởng dưới đây). 
 

 
Vinh danh Học viên xuất sắc tiêu biểu theo học kỳ & hàng năm là hoạt động thường kỳ/thường niên của Viện Quản trị & Công nghệ FSB, Đại học FPT. Không chỉ biểu dương những học viên đã có thành tích vượt bậc, BLĐ Viện hi vọng đây cũng là cơ hội để toàn bộ học viên cả 4 campus FSB trên cả nước tiếp tục thi đua rèn luyện và bứt phá trong học tập. FSB luôn trân trọng và tạo mọi điều kiện tốt nhất để các học viên có thể phát huy kiến thức, tài năng cùng lòng nhiệt thành của mình, góp sức vào sự phát triển của quốc gia.

 

FSB khai giảng khóa đào tạo Toàn cầu hóa cho Tập đoàn FPT

FSB phối hợp cùng với Trường đào tạo cán bộ FPT (FCU) tổ chức thành công lễ khai giảng lớp FPT MiniMBA#58TCH. Đây là khóa đào tạo toàn cầu hóa trực tuyến 100% đặc biệt dành cho 42 cán bộ quản lý của Tập đoàn FPT đang làm việc tại nước ngoài, bao gồm FPT Japan và FPT Malaysia.
 
 
Tham dự lễ khai giảng có sự tham dự của các lãnh đạo FPT trong và ngoài nước: Bà Trịnh Thu Hồng – Trưởng ban Triển khai Đào tạo FCU, Chị Chu Thị Thanh Hà – Chủ tịch FPT Sofware, Anh Nguyễn Việt Vương – Tổng Giám đốc FPT Japan Holdings, Anh Hoàng Việt Anh – Tổng giám đốc FPT Telecom.
 
 
Khóa học khai giảng tại một thời điểm đặc biệt khi 90% FPTers đều đang Work From Home, có nơi còn đang lockdown toàn quốc do tình hình dịch bệnh Covid-19. Tuy nhiên, tinh thần học tập của anh chị học viên luôn phấn khởi và nhiệt huyết. FSB cũng mong muốn rằng, đây là cơ hội để các anh chị học viên đang công tác ở nước ngoài có cơ hội học tập liên tục, và trải nghiệm phương pháp đào tạo đặc biệt của chương trình riêng tại FPT MiniMBA.
 
FSB tự hào là đơn vị đồng hành suốt 12 năm liên tục cùng FCU trong triển khai chiến lược đào tạo nâng cao năng lực cán bộ của tập đoàn FPT, đáp ứng năng lực chuyên môn trong 1 thế giới VUCA đầy biến động!
 
Tin FSB