Chính sách thuế, bảo hiểm, lao động có hiệu lực từ tháng 05/2019

Hỗ trợ tới 100% học phí khóa đào tạo quản trị kinh doanh, quy trình giải quyết hưởng chế độ BHXH, chi trả các chế độ BHXH, BHTN… là những chính sách mới có hiệu lực từ ngày 1/5/2019.
 

Đơn giản hóa điều kiện cấp Giấy phép cho thuê lại lao động
 
Theo Nghị định số 29/2019/NĐ-CPcó hiệu lực từ ngày 05/05/2019, doanh nghiệp được cấp Giấy phép cho thuê lại lao động khi đáp ứng 2 điều kiện sau:
 
– Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cho thuê lại lao động đảm bảo điều kiện:
 
+ Là người quản lý doanh nghiệp;
 
+ Không có án tích;
 
+ Đã làm việc trong lĩnh vực cho thuê lại lao động hoặc cung ứng lao động từ đủ 03 năm (36 tháng) trở lên trong thời hạn 05 năm liền kề trước khi đề nghị cấp giấy phép.
 
– Doanh nghiệp đã thực hiện ký quỹ 2 tỷ đồng.
 
So với trước đây, Nghị định mới đã bãi bỏ điều kiện về vốn pháp định (2 tỷ đồng) và điều kiện về địa điểm đặt trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp.

 
Hỗ trợ tới 100% học phí khóa đào tạo quản trị kinh doanh
 
Ngày 29/03/2019, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Thông tư 05/2019/TT-BKHĐT có hiệu lực từ ngày 12/05/2019 hướng dẫn hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
 
Theo đó, ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ 100% học phí khóa đào tạo khởi sự kinh doanh, quản trị kinh doanh đối với các đối tượng sau: Học viên của doanh nghiệp nhỏ và vừa có trụ sở tại địa phương có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; học viên của doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ.
 
Nếu không có điều kiện tham gia đào tạo trực tiếp, học viên có thể tham gia chương trình đào tạo trực tuyến, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Người lao động hoặc cán bộ quản lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ được cung cấp tài khoản để tham gia học tập tại Hệ thống đào tạo trực tuyến trên nền tảng Web hoặc trên thiết bị di động thông minh.
 
Dừng gia hạn nộp thuế và hoàn thuế đối với thiết bị để tạo tài sản cố định
 
Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 18/2019/TT-BTC bãi bỏ hoàn toàn Thông tư 134/2014/TT-BTC hướng dẫn thủ tục gia hạn thời hạn nộp thuế và hoàn thuế GTGT đối với máy móc, thiết bị nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án đầu tư tại Nghị quyết 63/NQ-CP ngày 25/8/2014.
 
Trước đó, ngày 13/12/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 150/NQ-CP để thống nhất dừng việc thực hiện giải pháp gia hạn nộp thuế và hoàn thuế GTGT tại Nghị quyết 63.
 
Theo đó, để hướng dẫn thực hiện nội dung này, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 18/2019/TT-BTC bãi bỏ Thông tư 134 kể từ ngày 20/5/2019.
 
Thông tư 18 quy định, đối với hồ sơ xin gia hạn nộp thuế GTGT khâu nhập khẩu theo quy định tại Thông tư số 134 của Bộ Tài chính mà doanh nghiệp đã nộp cho cơ quan hải quan trước ngày 20/5/2019 thì cơ quan hải quan tiếp tục giải quyết gia hạn nộp thuế theo quy định tại Thông tư số 134.
 
Đối với hồ sơ đề nghị hoàn thuế GTGT theo quy định tại Thông tư số 134 mà doanh nghiệp đã nộp cho cơ quan thuế trước ngày 20/5/2019 thì cơ quan thuế tiếp tục giải quyết hoàn thuế theo quy định tại Thông tư số 134.
 
Quy trình giải quyết hưởng chế độ BHXH, chi trả các chế độ BHXH, BHTN
 
Bảo hiểm xã hội Việt Nam vừa ban hành Quyết định 166/QĐ-BHXH về quy trình giải quyết hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp.
 
Theo đó, tại Quyết định này đề cập đến quy trình và hồ sơ giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội, gồm:
 
– Quy trình giải quyết hưởng và chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe;
 
Theo đó, hồ sơ hưởng chế độ thai sản với lao động nữ sinh con gồm bản sao giấy khai sinh hoặc trích lục khai sinh hoặc bản sao giấy chứng sinh của con. Trường hợp lao động nam nghỉ việc khi vợ sinh phải phẫu thuật hoặc sinh con dưới 32 tuần mà giấy chứng sinh không thể hiện thì có thêm giấy tờ của bệnh viện thể hiện sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi.
 
Trường hợp con chết sau khi sinh mà chưa được cấp giấy chứng sinh thì thay bằng trích sao hoặc tóm tắt hồ sơ bệnh án hoặc giấy ra viện của người mẹ.
 
Người lao động có thể nộp hồ sơ hưởng thai sản trực tiếp tại cơ quan BHXH hoặc thông qua đơn vị sử dụng lao động. Trường hợp nộp trực tiếp thời hạn giải quyết và chi trả tối đa 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Trường hợp thông qua đơn vị sử dụng lao động tối đa là 06 ngày.
 
Quyết định cũng nêu rõ cán bộ BHXH, cán bộ chi trả không được ký nhận thay các chế độ BHXH, BHTN của người hưởng.
 
– Quy trình giải quyết hưởng và chi trả chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất;
 
– Quy trình chi trả bảo hiểm thất nghiệp.
 
Ngoài ra, một trong những điểm mới tại Quyết định 166/QĐ-BHXH là việc cơ quan BHXH bãi bỏ quy định phải có sổ BHXH; các giấy tờ khám, điều trị thương tật ban đầu đối với trường hợp điều trị ngoại trú; bỏ điều kiện phải có biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường đối với trường hợp bị tai nạn giao thông được xác định là tai nạn lao động; biên bản tai nạn giao thông của cơ quan công an hoặc cơ quan điều tra hình sự quân đội trong việc giải quyết chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp lần đầu của người lao động.

(Nguồn: TTT)

Doanh nghiệp nước ngoài mở rộng sản xuất ở Việt Nam vì chiến tranh thương mại

Trong khi Mỹ và Trung Quốc đều đang cố gắng kết thúc thương mại dai dẳng, Việt Nam lại hưởng lợi nhờ lợi thế chi phí sản xuất thấp, Bloomberg nhận định.

Chiến tranh thương mại tạo ra cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp Việt
 
 
Khi Mỹ và Trung Quốc áp thuế lên khoảng 360 tỷ USD hàng hóa của cả hai bên vào năm ngoái, ông Lê Duy Anh, giám đốc CTCP Xuân Hòa, một nhà sản xuất gỗ tại Hà Nội, cho biết rất nhiều khách quốc tế đã đến thăm quan và tìm hiểu công việc sản xuất tại nhà máy của công ty ông. Các khách hàng của Xuân Hòa bao gồm cả hãng sản xuất nội thất Thụy Điển Ikea đã chuyển hướng một số hoạt động sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam. Ít nhất khoảng 10 khách hàng tiềm năng từ nước ngoài đã gọi đến văn phòng của ông Anh trong khoảng 3 tháng đầu năm nay.
 
Ông Anh, người hy vọng doanh số bán hàng sẽ tăng ít nhất gấp đôi trong 5 năm tới, nói: “Rõ ràng chiến tranh thương mại đang mang đến thêm nhiều cơ hội kinh doanh. Có nhiều công ty liên lạc với chúng tôi để chuyển từ mua hàng Trung Quốc sang mua hàng của chúng tôi”.
 
Xuân Hòa có quan hệ kinh doanh với Ikea hơn 17 năm, và hãng sản xuất đồ nội thất Thụy Điển gần đây đã bắt đầu đặt hàng một số sản phẩm kim loại nhỏ từ hãng sản xuất đồ nội thất Việt Nam này. Theo ông Anh, giá sản phẩm của Xuân Hòa hiện tại rẻ hơn khoảng 1 nghìn đồng/linh kiện so với nhà cung cấp của Ikea tại Trung Quốc, và còn có thể giảm nhiều hơn nữa dưới sức ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ – Trung Quốc.
 
Chi phí thấp
 
Phát ngôn viên của Ikea tại Thụy Điển, ông Mattias Hennius, cho biết: “Cũng giống như nhiều công ty toàn cầu khác, Ikea luôn tìm kiếm cơ hội cạnh tranh hơn để đảm bảo tối ưu hóa nguồn cung, giữ mức chi phí thấp cho khách hàng.”.
 
Sở dĩ Việt Nam nhận được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư bởi vì đây là địa điểm sản xuất hàng hóa nổi tiếng với chi phí thấp. Lương người lao động tại Việt Nam chỉ bằng nửa so với lương người lao động tại Trung Quốc, và giá điện ở Việt Nam rẻ bởi chính sách trợ cấp của Chính phủ. Việt Nam có đường biên giới với Trung Quốc, chính vì thế các nhà máy sẽ thận lợi hơn trong việc vận chuyển nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện phục vụ cho công việc sản xuất.
 
Chiến tranh thương mại đang đẩy nhanh một xu thế không ngừng phát triển kể từ khi Việt Nam bắt đầu mở cửa và hiện đại hóa nền kinh tế vào thập niên 1980. Kinh tế Việt Nam đã phát triển thành một trong những nền kinh tế phụ thuộc vào thương mại lớn nhất thế giới, với hàng tá hiệp định thương mại tự do được ký kết.
 
Vốn FDI liên tục tìm đến Việt Nam

Việt Nam chiếm khoảng 1/5 vốn FDI của ASEAN, ngoại trừ Singapore

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã không ngừng tăng trưởng từ đó đến nay, nhưng chỉ thực sự khởi sắc từ năm 2014 sau khi Samsung Electronics thông báo về kế hoạch chuyển hoạt động sản xuất điện thoại thông minh từ Trung Quốc sang Việt Nam nhằm tối ưu hóa lợi nhuận. FDI đạt mốc 14,1 tỷ USD vào năm 2017, tương đương khoảng 1/5 dòng vốn vào khu vực (không tính Singapore), theo số liệu được cung cấp bởi Maybank Kim Eng Research.
 
Việt Nam cũng đã có những bước tiến dài trong bảng chỉ số khảo sát điều kiện kinh doanh của Ngân hàng Thế giới cũng như tính cạnh tranh của nền kinh tế theo tính toán của WEF. Đồng thời, Việt Nam đứng thứ 60 trong bảng xếp hạng chỉ số đổi mới của Bloomberg.
 
Chiến tranh thương mại đóng vai trò như một cú huých đã kéo nhiều công ty đến Việt Nam mở rộng kinh doanh. Hai nhà cung cấp Apple là GoerTek của Trung Quốc và tập đoàn Đài Loan Hon Hai Precision Industry, còn được gọi là Foxconn, cũng như một số đối thủ của họ đã chuyển sang quốc gia Đông Nam Á trong cuộc chiến thương mại. Nhà cung cấp đồ gia dụng Mỹ Haverty Furniture cũng đang tăng cường sản xuất tại Việt Nam do áp lực thuế quan,
 
Điều này cũng thể hiện trong số lượng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đang tăng lên khi thương mại ở nơi khác bị ảnh hưởng. Xuất khẩu đã tăng 12,4% trong nửa cuối năm 2018 so với một năm trước, bỏ xa 5 nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á – theo dữ liệu được cung cấp bởi HSBC.
 
Dù vậy, các nhà đầu tư cho biết Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết để cải thiện môi trường kinh doanh như cải thiện và mở rộng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là vận tải và đảm bảo sản xuất có thể tăng dần chuỗi giá trị.

(Nguồn: NCĐT)

FPT có 8 sản phẩm, dịch vụ CNTT được tôn vinh tại Sao Khuê 2019

Ngày 21/4/2019, lễ công bố và trao giải Sao Khuê 2019 do Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT (VINASA) tổ chức thường niên đã được diễn ra tại Hà Nội. Theo công bố, FPT có 8 sản phẩm, dịch vụ ngành phần mềm và công nghệ thông tin nhận danh hiệu này.

>> https://ictnews.vn/cntt/chuyen-doi-so/fpt-co-8-san-pham-dich-vu-cntt-duoc-ton-vinh-tai-sao-khue-2019-181566.ict

Cách Google kết nối 10.000 nhân viên tại hơn 50 quốc gia

10.000 nhân viên của Googe trải rộng trên 150 thành phố, tại hơn 50 quốc gia. Vì vậy họ thường xuyên giải quyết công việc thông qua video chat.
 

Trong suốt 2 năm, Veronica Gilrane, quản lý Phòng nghiên cứu con người và đổi mới tại Google đã khảo sát 5.600 nhân viên của công ty và tổ chức khoảng 100 nhóm tập trung. Cô công bố những phát hiện về việc tạo nên văn hóa họp online.
 
1. Cho phép và khuyến khích nói chuyện phiếm
 
Nếu bạn không làm việc trong cùng văn phòng với các đồng nghiệp, bạn sẽ ít có cơ hội gặp mặt, nói chuyện và làm quen với họ.
 
Các nhân viên làm việc từ xa có thể thông qua các cuộc họp để xây dựng mối quan hệ cá nhân. Khi bắt đầu một cuộc họp, bạn thường muốn đi thẳng vào vấn đề chính nhằm đạt hiệu quả làm việc cao nhất. Tuy nhiên, Google khuyên bạn nên bắt đầu cuộc họp bằng một câu hỏi mở đầu như: “Bạn đã làm gì vào cuối tuần qua?”.
 
Một vài phút nói chuyện phiếm hoàn toàn không vô nghĩa. Qua đó, các nhân viên từ những đất nước khác nhau có cơ hội kết nối. Nếu bạn là một quản lý, hãy thúc đẩy văn hóa này. “Chúng tôi nhận ra rằng những quản lý làm gương và cố gắng tìm hiểu các thành viên thuộc nhóm phân tán có sức ảnh hưởng lớn hơn”, Gilrane nói.
 
Thậm chí, bạn nên đến sớm vài phút trước các cuộc họp để trò chuyện với các đồng nghiệp khác về những chủ đề không liên quan đến công việc.
 
2. Đối với các cuộc họp định kỳ, thay đổi thời gian
 
Tại Google, 30% cuộc họp đều liên quan đến những nhân viên lệch 2 hoặc nhiều múi giờ. Ví dụ, một người tại châu Á phải thức dậy vào nửa đêm để tham dự một cuộc họp với các đồng nghiệp có trụ sở tại Mỹ.
 
Do quy mô nhóm và địa điểm nhân viên làm việc, rất khó để phân bố phù hợp với thời gian làm việc của mọi người. Nếu các nhóm thường xuyên có những buổi họp định kỳ, hãy thay đổi thời gian họp mỗi tuần. Điều này giúp tạo sự công bằng, không để một bên luôn phải dậy sớm hay thức khuya.
 
3. Sử dụng lời nói và khuôn mặt
 
Hầu hết mọi người đều tắt tiếng khi họ không nói chuyện để giảm thiểu tiếng ồn xung quanh. Tuy nhiên, nếu video và micro luôn tắt tiếng, mọi người không thể nhìn và nghe nếu bạn tham gia vào cuộc họp. Gilrane khuyên rằng bạn nên cho mọi người thấy bạn đang lắng nghe.
 
Đồng thời, bạn nên lưu ý về ngôn ngữ cơ thểphản ánh bạn có mặt trong cuộc họp. Gật đầu nếu bạn đồng ý, không khoanh tay hay ngồi trượt trên ghế và ngồi thẳng để cho thấy bạn đang lắng nghe.
 
Khi tham dự một cuộc họp video, hãy phóng to để những người tham dự bên kia có thể thấy được nét mặt bạn. Gấp máy tính xách tay bởi nếu bạn liên tục gõ phím (và không phải người ghi báo cáo) thì rõ ràng, bạn đang không chú ý.

(Nguồn: Người đồng hành)

Những cuộc chiến một mất một còn: “Cá mập” ngoại nuốt doanh nghiệp nội

Tự nguyện "bán mình" hay bắt tay với các đối tác ngoại để rồi bị "nuốt chửng" diễn ra rất nhiều trên thị trường Việt Nam. Đến nay, những vụ "thay tên đổi chủ" của thương hiệu Việt vẫn chưa dừng lại. 
 

Vụ thâu tóm 2 nhãn hiệu kem đánh răng đình đám một thời của Việt Nam luôn được nhắc đến như một bài học kinh điển về hợp tác, liên doanh với các đối tác ngoại. Thế nhưng vì nhiều lý do, việc thương hiệu Việt bị "nuốt chửng" vẫn diễn ra liên tục. 
 
Nhiều thương hiệu tiêu dùng nổi tiếng của Việt Nam dần bị thâu tóm bởi 'cá mập' ngoại. Ảnh: Ng.Nga
 
Từ hóa mỹ phẩm…
 
Từng làm mưa làm gió trên thị trường nội địa nhưng sau cuộc "gả bán" cho Colgate năm 1995, thương hiệu kem đánh răng nổi tiếng của Việt Nam mang tên Dạ Lan đã chính thức biến mất. 2 năm sau đó, năm 1997, khi Unilever đến Việt Nam và đề nghị chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu P/S qua phương án thành lập một công ty liên doanh là Elida P/S. Ban đầu, P/S sản xuất vỏ hộp kem đánh răng cho liên doanh. Thời gian sau, Unilever đã chọn 1 công ty của Indonesia để sản xuất ống nhựa cho kem P/S khiến cho phía Việt Nam bị bật ra khỏi liên doanh. Từ đây, nhãn hàng P/S nổi tiếng một thời chính thức giã biệt với quyền sở hữu Việt Nam.
 
Đến tận bây giờ, xây dựng thương hiệu vẫn được coi là điểm yếu của doanh nghiệp Việt. Điều này xuất phát có lẽ bởi Việt Nam là nước xuất khẩu nổi tiếng thế giới nhưng hầu hết xuất thô nguyên liệu hoặc gia công nên không có thương hiệu, không ai biết đến. Nhưng thực tế ở thị trường nội địa, có không ít doanh nghiệp đã xây dựng thương hiệu thành công, chiếm thị phần lớn bất chấp sự cạnh tranh khốc liệt với các ông lớn nước ngoài thâm nhập nội địa sau khi Việt Nam mở cửa.
 
Chỉ tiếc là không ít trong số đó đến nay đã bán mình cho các đối tác ngoại. Đơn cử như Diana, chiếm 30% thị phần bỉm giấy, 40% thị phần giấy vệ sinh, thương hiệu Việt này dẫn đầu trong ngành sản xuất các sản phẩm chăm sóc phụ nữ và trẻ em tại thị trương trường nội địa. Thế nhưng năm 2011, công ty này đã có quyết định bán đi 95% cổ phần cho Unicharm Nhật Bản với giá 184 triệu USD, chính thức trở thành doanh nghiệp ngoại. Cũng năm 2011, thương hiệu dầu gội đầu X-Men của Việt Nam cũng được ông chủ của nó bán cho Tập đoàn mỹ phẩm Marico đến từ Ấn Độ. Dù "tự nguyện bán mình" nhưng đến nay vẫn không ít người tiêu dùng trong nước vẫn không thôi nuối tiếc khi nhớ về câu slogan "Người đàn ông đích thực" làm mưa làm gió một thời của thương hiệu dầu gội này. 
 

 
Thương hiệu bia nổi tiếng Việt Nam đã vào tay người Thái. Ảnh: Ngọc Dương
 
Đến phở, bia, nước giải khát…
 
Năm 2003 khi Phở 24 chính thức ra mắt thị trường, người khen thì ít mà người chê thì nhiều. Cũng dễ hiểu, phở là món "quốc hồn, quốc túy" của người Việt, thân thuộc và giản gị. Người Hà Nội đến bây giờ vẫn chấp nhận xếp hàng để ăn bát phở ngon. Người Sài Gòn và nhiều tỉnh, thành trên cả nước chỉ cần gạt chống xe là có thể ngồi xuống làm tô phở nóng hổi, thơm nghi ngút ở bất cứ con đường, hè phố nào. Thế mà một ngày cha đẻ của Phở 24 Lý Quí Trung lại "lên đời" cho phở từ không gian, hương vị, phong cách phục vụ, chén bát, rau giá… Những nhận xét kiểu "sạch sẽ, chuyên nghiệp nhưng mà mùi vị thua xa quán phở ở ngõ nhà tôi", "mất tính đại chúng, phở không còn là phở nữa"… được đưa ra tới tấp.
 
Bất chấp, Phở 24 dần trở thành lựa chọn của nhiều người, quy mô ngày càng được mở rộng và hừng hực quyết tâm trở thành thương hiệu được thế giới biết đến. Thế nhưng đến năm 2011, Phở 24 đã chính thức được chuyển nhượng cho chủ mới là Công ty Việt Thái Quốc Tế, đơn vị sở hữu thương hiệu Highlands Coffee. Công ty này sau đó chuyển nhượng 50% cổ phần cho Jollibee (Philippines), chính thức khép lại ước mơ quốc tế hóa phở Việt của nhà sáng lập Lý Quí Trung 1 thập niên trước đó. 
 
Ồn ào cho đến tận lúc này là vụ bán thương hiệu bia Sài Gòn (Sabeco) cho người Thái. Cuối năm 2017, tỷ phú Thái Lan Charoen Sirivadhanabhakdi đã bỏ ra 5 tỷ USD để sở hữu 54% cổ phần của thương hiệu bia lớn nhất Việt Nam. Trước khi về tay người Thái, dù trên thị trường có rất nhiều thương hiệu bia nội, ngoại cạnh tranh khốc liệt nhưng bia Sài Gòn vẫn luôn nỗ lực giữ và chiếm thị phần lớn nhất và trở thành đại diện cho hình ảnh, thương hiệu bia Việt. Đặc thù của bia là có tính địa phương, nên dù bia nhập có nổi tiếng đến bao nhiêu thì ở hầu hết các quốc gia, bia nội vẫn giữ vị trí số 1 về thị phần.
 
Nhưng giờ bia Sài Gòn đã về tay người Thái, lợi nhuận họ hưởng, nếu vẫn tính là bia nội thì gượng ép vì thực tế chỉ còn cái tên. Còn nếu tính cho người Thái thì thị phần của bia Việt lép vế hoàn toàn trước các doanh nghiệp ngoại. Vậy nếu phải giới thiệu bia Việt, chúng ta sẽ nói nhãn hiệu nào cho vẹn cả đôi đường? Thực tế bia Sài Gòn không phải nhãn hiệu đầu tiên bán mình cho doanh nghiệp ngoại. Thương vụ mua lại phần vốn tại Bia Huda của Carlsberg đã biến công ty này từ liên doanh trở thành 100% vốn nước ngoài. Cũng bằng cách này, Carlsberg đang nắm cổ phần chi phối ở nhiều công ty bia trong nước. Việt Nam là nước tiêu thụ bia lớn nhất Đông Nam Á và xếp vào hàng đầu thế giới nhưng thị trường màu mỡ này đã chính thức rơi vào tay các doanh nghiệp nước ngoài. 
 
Tương tự ở lĩnh vực nước giải khát, những thương hiệu quen thuộc với người Sài Gòn như Tribico đã bị “nuốt” trọn bởi Uni-President; nhà sản xuất rượu lớn nhất Việt Nam Halico cũng bán 45% cổ phần cho ông lớn Diageo đến từ Anh; trà bí đao Wonderfarm nổi tiếng một thời rơi vào tay Kirin Holdings, một tập đoàn từ Nhật Bản…
 
Dù bị thâu tóm hay tự nguyện bán mình, mỗi thương hiệu Việt "đổi chủ" vẫn mang đến cho người tiêu dùng sự nuối tiếc khôn nguôi. 
 
(Nguồn: Báo Thanh Niên)